Friday, January 7, 2011

MAY ĐÃ CÓ MỘT THỜI NHƯ VẬY ĐÓ


TRỊNH CÔNG SƠN

 HOÀNG NGỌC TUẤN
 
hồi ký trích đoạn

 
Trưa ngày 30/4/75 lúc xe tăng Nga T54 tiến vào ủi sập cổng dinh Độc Lập thì trên đài Saigon, cả nước nghe Trịnh Công Sơn (TCS) hát bài Nối Vòng Tay Lớn: bàntay ta nắm nối tròn một vòng Việt Nam. Nhưng ít ai biết tác giả với giọng ca đó đã từng bị đe dọa thanh toán giết vì mt sáng tác sau vụ cán bộ nằm vùng nsúng cưp micro ở Đại Học Văn khoa năm 1967 vì câu Anh nhân danh ai đến đây bắn vào người ; và mấy ai biết TCS đã ví Việt Cọng như đàn bò vào thành phố qua bản Du Mục? Ngoài ra, cũng hiếm người biết rằng nhờ báo Saigon trước 75 đăng lệnh cấm phổ biến nhạc phản chiến họ Trịnh số 33 ngày 8/2/1969, đã cứu TCS khỏi vụ xét Trịnh Công Sơn có công hay có tội với cách mạng, tại Hội Văn Nghệ ở Huế sau ngày toàn VN bị nhuốm đỏ; khi Hội đặt vấn đề về câu hát Hai mươi năm nội chiến từng ngày và bài Cho Một Người Nằm Xuống thương tiếc đại tá phi công Lưu Kim Cương,  một Sĩ Quan Việt Nam Cộng Hòa (VNCH).   
 
Bản Anh Nhân Danh Ai được dấu tiệt sau khi TCS nhận được lời cảnh cáo. Phạm Phú Minh, chủ biên Diễn Đàn Thế Kỷ cho tôi biết như vậy khi chúng tôi nhắc tới  Quasimodo, một nhân vật vô gia cư sống quanh Quán Văn, chỗ mà nhà văn Hoàng Ngọc Tuấn (HNT) gọi là Ở Một Nơi Ai Cũng Quen Nhau,  cách Phủ Tổng Thống ba blocks. Vụ khủng bố có máu đổ trong trường học đã khiến TCS hết dám hát trước đám đông ở Saigon và Quán Văn đóng cửa luôn. Còn chuyện TCS thoát hiểm nhờ lệnh số 33 được Nguyễn Đắc Xuân kể lại trong Trịnh Công Sơn-Có Một Thời Như Thế. Sách này sưu tầm nguồn tư liệu đời TCS; có đề cập thời gian TCS về lại c đô sau 1975, để tránh việc anh em Phong Trào không thích lập trường chung chung của họ Trịnh. Nguyễn Đắc Xuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường là hai ngưi hay được nhắc đến khi nói về vụ thảm sát Mậu Thân 1968 Huế.
 
Vào đêm nổ súng ở trường đại học Văn Khoa mới xây, khi phần trình diễn văn nghệ của Khánh Ly và TCS tạm ngưng để Ngô Vương Toại nói về việc bầu ban chấp hành sinh viên cho năm tới, thì một cặp nam nữ lên sân khấu cưp micro, tuyên bố kỷ niệm bảy năm thành lập Mặt Trận Gỉải Phóng Min Nam. Ngô Vương Toại bị bắn quỵ ngay khi cố giữ micro lại. Nguyễn văn Tấn nhào lên bị bắn què giò. Chủ biên Diễn Đàn Thế kỷ kể, TCS vài ngày sau, mt bui trưa ôm đàn guitare hát bài có lời nói trên trong căn nhà tin chế, trên nền Đại Học Văn Khoa cũ. Phạm Phú Minh nói thêm, chẳng bao lâu họ Trịnh cho hay ông bị hăm dọa. Thời gian 1966-1967, khi phụ trách Chương Trình Phát Triển Sinh Hoạt Thanh Niên Học Đường ( CPS ), Bộ Giáo Dục giao cho Hà Tường Cát, Phan văn Phùng, Phạm Phú Minh điều hành khu đất trống sau trường;  và chính Đỗ Việt Anh đưa ra sáng kiến lập Quán Văn.
 
HoangNgocTuanOMotNoiFrontHoangNgocTuanNgocMinh
 
Theo nhà thơ Hoàng Xuân Sơn, ngưi đưc coi như điu hành Quán Văn, tất cả khởi từ sự thành lập CPS vào khoảng 1965-66 tại Saigon, quy tụ những thanh niên, sinh viên, học sinh có tinh thần phụng sự xã hội. Trong đó có những khuôn mặt quen: Hoàng Ngọc Tuấn (HNT), Nguyễn Huỳnh, Ngô Vương Toại,  Hoàng Xuân Giang, Cao Sơn v.v. Anh em ăn ở, sinh hoạt, rong chơi cùng một địa điểm như chung một nhà. Quán Văn được hình thành sau đó, đã đưa những tên tuổi Phạm Duy, Trịnh Công Sơn/Khánh Ly, Từ Công Phụng/Thanh Lan, Nguyễn Đức Quang/Ban Trầm ca… đến gần với giới trẻ Saigon. Trịnh Công Sơn/Khánh Ly chỉ là những thân hữu sinh hoạt lâu ngày nhất với Quán Văn. TCS và HNT là hai người tử thủ sau cùng khu CPS/Quán Văn trước khi địa điểm xây lại thành Thư Viện Quốc Gia năm 1970.
 
 
Nhân danh ai?
 
Vẫn theo Hoàng Xuân Sơn, Nhóm Sinh Viên Văn Hóa đã góp tiền và tự quản quán Văn. Vì vụ bắn cướp và vì những lý do riêng tư cùng với lệnh giải tỏa khu đất để xây Thư Viện Quốc gia, anh em tan hàng. TCS đã sáng tác ca khúc Nhân Danh Ai,  dành riêng cho Ngô Vương Toại. Bài ca lên án những ai dùng bạo lực để  cướp lấy tính mạng của đồng loại. Khánh Ly và các bạn cùng nhóm  –  từng sinh hoạt chung ở quán cà phê vang danh một thời –  đã đứng ca bài này trước đầu giường bệnh Ngô Vương Toại đêm Giáng sinh 1967; nhưng giờ, chỉ nhớ lỏm bỏm được một câu: Nhân danh ai anh đến đây bắn vào người – cho máu em cho máu anh tuôn trên da thịt này. Hỏi NgôVương Toại thì cũng không nhớ trọn:
 
                         Nhân danh ai anh đến đây bắn vào người
                              Lũ dơi trời đêm nay vùng biết nói
                      Nhân danh ai ? anh đến đây bắn vào người
                      Trong mắt anh, trong mắt em, hãi hùng 
                          Xin nhân loại một ngày,
         nhủ lòng thương mến nhau thôi                                                           
                       Nhân danh ai, anh đến đây bắn vào người
                                . . . .
                              Trong tim anh, mẹ Việt nằm
                              Trên nôi chung một màu vàng
                              Một niềm tin, một giận hờn . .
 
Phạm Duy, trong Hồi Ký đã ghi, Tình khúc TCS ra đời,từ giữa giàn phóng là Quán Văn được hỏa tiễn Khánh Ly đưa vút vào phòng trà, rồi vào băng cassette và chỉ trong một thời gian rất ngắn đã chinh phục được tất cả người nghe. So sánh với những tình khúc ba bốn chục năm qua, ngôn ngữ trong nhạc TCS rất mới. Thật ra, các ca khúc của họ Trịnh tự nó đã dễ cảm nhận, dễ đi vào tim óc người nghe rồi vì nó là nỗi lòng của mỗi một con người trong cuộc sống.Nó có sông, suối, núi đồi, có hoa lá bốn mùa, có tình yêu, tình bạn. Nó là nắng, là mưa, là nụ cười, là tiếng khóc. Nó chính là tiếng chim buổi sáng, tiếng gà gáy buổi trưa trên đồi mang âm vang của một nỗi nhớ nhung. Tôi đã vẽ ra những bầu trời có cánh bướm, cánh chuồn, có màu môi hồng ngọc. Đấy là những điều TCS (1939 – 2001) giải bày về  nhạc của mình qua bài Phác Thảo Chân Dung Tôi viết năm 1987.
 
Thiết tưởng, khi sưu tập về các tác giả đã sáng tác thơ tình ở miền Nam trong giai đoạn 1954-1975, không thể không nhắc tới TCS. Vì sao? Tuy không hẳn làm thơ nhưng như họ Trịnh nói, các sáng tác của ônglà cuộc hôn phối giữa thi ca và âm nhạc. Nhiều người còn cho rằng TCS đích thực là một thi sĩ. Ngoài ra, có một nghệ sĩ  khác, nhà văn Hoàng Ngọc Tuấn cũng nên được ghi nhận trong việc sưu tầm . Họ Hoàng cùng nổi tiếng một thời với họ Trịnh; cũng đã qua đời ở Việt Nam. Những truyện ngắn của HNT là những nhạc khúc, những bài thơ được trình tấu bằng văn xuôi. Tất cả đều là tiếng cười, điệu hát, giọt lệ hân hoan của một thời tuổi trẻ. HNT viết tập truyện ngắn Ở Một Nơi Ai Cũng Quen Nhau giữa lúc đại bác Cộng Quân đêm đêm rót vào thành phố; cán bộ nằm vùng gia tăng phá hoại, ám sát, đặt mìn, liệng chất nổ vào chỗ đông người rạp hát, chợ búa.
 
Lời văn, câu ca, điệu nhạc của họ chẳng những cho thấy hai tâm hồn nghệ sĩ của một thời đại mà còn phản ảnh được bi kịch của một giai đoạn lịch sử. Khi mọi người đã chia tay rã đám rồi, đôi bạn chân tình TCS/HNT là hai người cuối cùng  rời bỏ cái quán cà phê lợp tôn và một dãy nhà thấp lụp xụp làm bằng những vật liệu thô sơ gỗ rơm cát tông. TCS về Huế; HNT khoác áo lính đi bốn vùng chiến thuật. CPS/Quán Văn ở góc đường Lê Thánh Tôn – Công Lý, thời Pháp thuộc là khám lớn Saigon. Theo mô tả của HNT,  Ở Một Nơi Ai Cũng Quen Nhau là một khu cỏ dại, ngay trung tâm thủ đô. Về khuya, khi hết khách, trong hơi lạnh của sương đêm, cả bọn im lặng, dưới ánh đèn mờ,  nghe Lệ Mai hát mấy bản nhạc của họ Trịnh. Giống như một gã lãng tử người Mễ Tây Cơ trong chiếc áo rộng thùng thình, chàng nhạc sĩ ngồi trong bóng tối ôm cây guitare đàn theo giọng hát.
 
TCS and KL at Quan Van 1967
Khánh Ly & Trịnh Công Sơn 1967
 
Lệ Mai ban ngày nghịch như một con chim rừng xanh; nhưng ban đêm khi cất tiếng hát cao, giọng nàng nghèn nghẹn một nỗi trầm buồn. Tiếng hát hoang đường hòa với tiếng đàn đêm khuya của TCS khiến cho thân thể người nghe sựng lại bất động; mọi cánh cửa của tâm hồn như mở ra để đón nhận những lời hát. HNT viết tiếp, giọng hát làm cho giọt nước mưa tưởng chừng an phận trong đời sông hồ bỗng nhiên ao ước bay về trời làm mây trở lại. Lệ Mai tức Khánh Ly đêm nào, ở khu này, được tôn làm Nữ Hoàng Chân Đất hay Nữ Hoàng Sân Cỏ khi nàng bất thần bỏ giày bước lên thùng gỗ đựng beer, vịn vai TCS, mắt nhắm, mặt ngước cao, hát lên những địa danh vang ầm tiếng súng, đầy chết chóc ở Pleime, Đồng Xoài; và về gia tài của mẹ, về người con gái Việt Nam da vàng khiến hội trường lịm người rồi òa lên cỗ vũ cuồng nhiệt. Có bài hát đến tám lần.
 
Quá nhiều nợ
 
Phụ lục nhật ký in sau tập truyện Ở Một Nơi Ai Cũng Quen Nhau cho biết, nếu ai tới Quán văn, hễ thấy một thằng người Huế, hơi gầy, tóc không chải, áo quần bê bối, miệng hay hát những câu kỳ cục, thường hút một thứ thuốc lá Lạc Đà hay bó gối ngồi một mình với dáng cô độc buồn bã thì người đó là HNT. Ông nổi tiếng ngay từ cuốn đầu tiên Hình Như Là Tình Yêu. Truyện viết về những kẻ bỏ học đường, những tâm hồn lang thang, những lãng tử, những tiếng hát đàn bà, những bé thơ ngây và những gái giang hồ. Ngỏ lời trong buổi ra mắt sách HNT nói, cái thế giới tôi yêu mến và hết lòng cố gắng thể hiện là cái thế giới tôi đang sống, tôi đang có. Ông có gì? Nhiều bạn và nhiều nợ vì bỏ nhà đi hoang sớm; và vì xài nhiều hơn số tiền kiếm được. Ông chỉ mong có dịp lên hát song ca với Khánh Ly vài bản để trừ nợ của cô. Đó là chưa kể nợ ân nghĩa và nợ tình cảm.
 
Nhật ký còn ghi HNT đặc biệt mang ơn cô thi sĩ nhỏ Minh Ngọc, đã tưới chan chứa cho tôi nguồn nước ngọt trong đời lao đao khô cạn. Trang mạng Gió-O cho biết hình như giữa họ còn mấy đám mây mù hệ lụy văn chương nào đấy với nhau. Cũng trên mạng đó có đăng một khúc chiêu niệm của Minh Ngọc dành tiễn người yêu cũ chia tay trần gian; trong đó có câu Kính thưa thầy, đây là bài toán của con; con không thể chứng minh đường thẳng là đường ngắn nhất nối giữa 2 đường; vì bao máu xương đã đổ rồi  có nối được đâu Sàigòn-Hànội; cho dù có qua Paris, Washington D.C, Moscow, Bắc Kinh. Con không thể, Bởi vì sáng nay Anh Con Vừa Chết. Hoàng Ngọc Tuấn  sinh ngày 20/5/47 tại Huế và mất ngày 9/7/05 tại SàiGòn. Tác gỉa Ở Một Nơi Ai Cũng Quen Nhau không vợ con; quá túng thiếu trước khi lìa đời. Nhà văn Hoàng Ngọc Tuấn  sau 75 còm cõi, xơ xác, thường ngồi trầm ngâm giữa mịt mù khói thuốc.
 
Hoàng Ngọc Tuấn học Triết ở Đại Học Văn Khoa Saigon. Trước ngày “giải phóng” 30/4/75, ông in được sách khá nhiều và nhanh; bán rất chạy nhưng vẫn nghèo vì quá hào phóng; ăn xài xả láng với bạn bè. Sống một đời lãng tử; lang thang rày đây mai đó. Mỗi sáng sớm tôi gói bót và kem đánh răng trong một cuốn sách vùa in của tôi, ra đánh răng rửa mặt “ké” ở “toilette” của quán cà phê đầu ngỏ. Tôi là nhà văn. Nhà văn hoạt động mệt hơn một người lao công cộng với một nhà triết học. Tôi viết văn và tác phẩm của tôi cảm hứng từ tất cả những mùi vị của cuộc đời. Tôi sống và yêu, yêu và viết, viết và sống. Từ đau đớn và truân chuyên, tôi gửi đến cho mọi người hạnh phúc vững bền của chữ nghĩa. Những câu này trích từ  nhật ký viết năm 1972 thời VNCH, họ Hoàng 28 tuổi đã có hơn 10 tập truyện. Sau đó, 30 năm sống trong thời đại văn “thiến” Hồ Chí Minh, ông không sáng tác được gì.
 
Trong Văn Học Miền Nam Tổng Quan, Võ Phiến đã nhận xét, nhà văn Hoàng Ngọc Tuấn là thơ, là mộng, là tình. Tác giả Ở Một Nơi Ai Cũng Quen Nhau đạt những gì ông mong mỏi nhưng không có duyên để hưởng. Qua hồi ký, HNT cho biết, ông sung sướng vì đã có ít nhiều độc giả lý tưởng, cảm thông và chia xẻ ước mơ của mình. Chuyện sau đây không phải Hình Như Là Tình Yêu đã chớm nở mà theo Hoàng Xuân Sơn như chuyện thần tiên đã xảy ra. Tôi đọc một lần là thương liền. Tất cả những dòng chữ trong cuốn truyện này là tiếng sét ái tình. Đọc HNT tôi vừa nể trọng, vừa kính phục, vừa thương. Nữ độc giả Hoà Bình thố lộ như vậy qua bài Nói Với Hoàng Ngọc Tuấn; và còn cho hay, đã về Việt Nam hai lần cố tìm HNT để đáp ứng điều ông cần một năm đủ ăn, rảnh rang để có thể viết một tác phẩm nhưng không thành.Với sự đồng ý của gia đình HNT và để bày tỏ lòng quí mếnnữ độc  giả đã in lại cuốn này.
 
Ở Một Nơi Ai Cũng Quen Nhau ngoài Nữ Hoàng Sân Cỏ, với giọng hát làm cả hội trường thẩn thờ, còn có một Bông Hồng Quán Văn, xinh xắn, dịu dàng, bặt thiệp và một nụ cười dễ mến, nhờ chiếc răng khễnh ngộ nghĩnh, đã khiến nhiều chàng trai thành tình si.Trên quầy lúc nào cũng có bông hồng của khách. Nhuệ Giang, em gái nhỏ, của bọn người từ những thành phố khác nhau đã chung sống như một gia đình, làm thâu ngân viên nên tiền thu của quán đêm nào cũng đầy. Hoàng Xuân Sơn đúng khi cho rằng, Quán Văn đã tạo nên phong trào mở quán cà phê đèn mờ, nhạc nhẹ, có tà áo dài thấp thoáng như Thằng Bờm, Hầm Gió, Hội Quán Cây Tre.. Những quán hàng này cùng với các tiệm nổi tiếng Givral, La Pagode, Brodard, Thanh Thế cùng nhà sách Khai Trí và Xuân Thu chuyên sách ngoại đã làm cho đời sống Saigon thêm phong phú, sinh động về mặt văn học, nghệ thuật.
 
Radio Catinat ở Givral là chỗ của chính khách, nghị sĩ, dân biểu, nhà báo. Họ là những thầy bàn về tình hình trong và ngoài nước. Tin tức tại đây 24 giờ sau mới bày hàng trên mấy sạp báo Saigon. Quán cái chùa La Pagode là tụ điểm giới văn nghệ; lúc nào cũng có vài nhà văn, nhà thơ thuộc loại cây đa, cây đề. Đi về hướng bờ sông vào tiệm Brodard sẽ thấy mấy nhà affair đang kỳ kèo bớt một thêm hai. Ngược về chợ Bến Thành, vô quán Thanh Thế, Thanh Bạch, Kim Sơn nghe chuyện thể thao kịch trường. Tới ngã tư quốc tế Bùi Viện- Phạm Ngũ Lão sẽ biết nhiều về hậu trường sân khấu của các đào kép cải lương. Muốn tâm sự nhỏ to, thì ghé tiệm cà phê ở cuối góc phố. Nên nhớ theo Võ Phiến, những giọt cà phê tự trọng là những giọt không bao giờ rơi nhanh. Chẳng hề có chuyện phân biệt đối xử theo giai cấp. Quán không lựa khách. Khách chọn quán, tạo cho quán không khí riêng.
 
 
Giải phóng thành phỏng dái
 
Từ Thức Trần Công Sung trong bài Trịnh Công Sơn Và Những Ngày Văn Khoa trên Thế kỷ 21, cho biết từ 1963, sinh hoạt giới trẻ Sàigòn cực kỳ náo nhiệt. Hết biểu tình đến hội thảo. Họ quên rằng trong cái hỗn loạn Việt Nam chỉ là quân cờ thí. Họ tự hào thuộc giới trẻ, họa sĩ trẻ, nhạc sĩ trẻ, ca sĩ trẻ. Đám sinh viên trong đầu đầy mộng cải tạo xã hội và trong túi không có đủ tiền uống một ly cà phê. Thỉnh thoảng chứng kiến những vụ pháo kích; thỉnh thoảng nhậu vài két la de, lạc rang, củ kiệu, tiễn bạn lên đường nhập ngũ. Chiến tranh còn xa, đại bác đêm đêm vọng về. Đám tuổi 20 kề vai nhau nghe Lệ Thu ngủ đi em mộng bình thường; nghe Thái Thanh ca mẹ Việt nam không son không phấn, và xúc động với cái viễn ảnh Việt nam quê hương đất nước sáng ngời. Họ tham gia các hoạt động xã hội cứu lụt, cải trang xóm nghèo, leo lên làng Thượng dạy học, đào giếng, chữa bệnh.
 
*
 
Cùng lúc đó, có một số người, lợi dụng những sinh hoạt dân s trong sáng, giúp đời, giúp người, len vào các giai tầng xã hội thuộc mọi lãnh vực tôn giáo, văn nghệ, giáo dục, báo chí, tìm cách phá hoại, hỗ trợ cho sự xâm lăng của Cộng Sản Bắc Việt. Sách của Nguyễn Đắc Xuân, k lại ngày 20/7/1965, Ủy ban Thanh niên Sinh Viên của Nguyễn Cao Kỳ mời sinh viên miền Nam về Saigon hội thảo “chuẩn bị giải phóng miền Bắc”. Dịp này, bà Ngô Bá Thành, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân đã công khai kêu gọi hòa bình. Trên đây là hình thời 60, Hoàng Phủ Ngọc Tường đang diễn thuyết, trên báo Sài Gòn TiếpThị tháng 7/2010, cho thấy mt phn đi sng chế đ cũ. So vi Cộng Hòa Xã Hôi Chủ Nghĩa của họ Hồ, VNCH t 1954-1975 Đc Lp-T Do-Hạnh Phúc hơn nhiu. My ông thân cộng, phản chiến chui vào lỗ nào đâu hết rồi, không thấy “thách đố” như ngày xưa khi ngày nay mất đất, mất biển và đảng ta hèn hạ trước Đại Hán?
 
Thp niên 60 tôi làm gì? Là phóng viên Việt Nam Thông Tấn Xã, đã đi khắp các tỉnh miền Nam. Đi lắm có ngày gặp ma. Quả không sai. Mt sáng, máy bay C-46 đến Quảng Tín thì bị Cộng quân bắn phát cháy, rớt ngoài phi trường. Trong khói mịt mù, tôi theo mọi người nhảy ra khỏi phi cơ, cố chạy một khoảng thì quỵ. Khi nghe tiếng trực thăng phành phạch, nhìn chung quanh chỉ có cỏ, cát. Cảm giác thiêu thiếu một cái gì, rờ mặt, kính cận mất đâu rồi. Sau đó, tôi thấy mặt đất nghiêng ngửa, trời xanh, mây trắng vần vũ. Được chở về nm ở bệnh viện Đà Nẵng, tôi mới ý thức sâu xa sự hy sinh vô bờ bến của thương bệnh binh. Trong khi về lại Saigon, đêm đêm tôi ghé các quán xá, tán dốc với bạn, ngắm nụ cười duyên của Bông Hồng; còn nghĩa quân, điạ phương quân, cả đời sng âm thm vùng heo hút, giữ cho hậu phương có được những sinh hoạt bình thường trong thời khói lửa.
 
Và nhờ ở lại sau 30/4/75, tôi mới thấy văn học truyền khẩu thiệt là tinh quái. Cái gì cũng có câu vè, câu hát. Trẻ em đồng ca ngoài đường rồi ù té chạy: như có bác Hồ trong nhà thương chợ Quán thay vì trong ngày vui đại thắng. Giờ nghĩ lại, thấy đúng quá. Chỉ kẻ điên mới chui vào hậu phương lớn Trung Quốc, xem Đại Hán vừa là đồng chí vừa là anh em; gây cảnh nội chiến; để rồi Tàu Cộng chiếm đất, thuê rừng, vạch đường lưỡi bò, lưỡi trâu. VNCH còn thì làm sao có chuyện đó? Ngoài ra, lúc thay tên đường thì có câu Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lý, Đồng Khởi lên rồi mất Tự Do. Rêu rao bộ đội không lấy sợi chỉ cây kim. Nhưng đảng thì lột sạch dân Nam qua việc đổi tiền; học tập cải tạo... Năm đồng đổi lấy một xu, thằng khôn đi học, thằng ngu làm thầy. Nguyễn Ngọc Phách đã gom lại thành Việt-sử Đương-đại qua 200 câu vè bất hủ;  có cả bản tiếng Anh Life in Viet Nam. Miền Nam là thuộc địa của đảng ta, tệ hơn thời Pháp, khiến giải phóng thành phỏng dái. Để tránh, chỉ biết nhào ra biển thôi. 
 
Trong cảnh bát nháo những ngày đó, một hôm đi gần dinh Độc Lập thì nghe gọi. TCS bên kia đường đạp xe quẹo qua. Chúng tôi trao đổi tin tức về bạn bẻ và lo âu không biết ra sao ngày sau? Vài tháng kế, TCS gửi tôi bức thư bốn trang nhờ anh tôi từ Huế vào trao lại. Lúc đó lu bu quá, giờ không còn nhớ TCS đã viết những gì. Thật tiếc! Đó là liên hệ lần chót. Trước 75 chúng tôi hay đàn đúm ở  khu Văn khoa. TCS ngụ nơi này. Tôi chỉ mò tới tán dốc chớ không phải tới để vô lớp. Thời VNCH sinh viên có thể ghi danh nhiều trường khác nhau. Từ tiểu học tới đại học không tốn đồng xu cắt bạc nào. Nếu không, mồ côi như tôi, chắc khó biết trường học là gì. Trong các bản nhạc tình của họ Trịnh tôi thích Nắng Thủy Tinh. TCS có lần đã giải thích cho tôi câu ngàn cây thắp nến lên hai hàng; để nắng đi vào trong mắt em; tả những tia nắng chiều đọng trên ngọn cây; như ngàn cây thắp nến.
 
Tuy không là sinh viên văn khoa nhưng theo Từ Thức Trần Công Sung, ở đây TCS là bạn của mọi người, mỗi người một cách rất tự nhiên. Đôi mắt tinh anh, láu lỉnh, nụ cười hiền lành như một thầy tu; ông có cái phong thái của một thi nhân, cái khiêm tốn của một người có thực tài. TCS ở ngoài đời rất giống TCS người ta tưởng tượng khi nghe những bản nhạc tình của họ Trịnh. TCS một gã người Huế rất thanh nhã, rất ung dung, từ tốn. Cái ung dung, từ tốn quí phái của một con mèo; với nụ cười thường trực trên môi. Học chương trình Pháp, nhưng sử dụng tiếng Việt một cách rất tài tình. Nhiều chữ tầm thường, chợt trở nên truyền cảm; nhiều chữ bịa ra nhưng mang nhiều hình ảnh đến từ một trí tưởng tượng phong phú. Không nghe  giải thích người ta vẫn xúc động, mặc dù không hiểu từng câu, từng chữ. Nhất là trong những bản nhạc tình.
 
image
 
Chính những năm này là những năm sôi động nhất của đời tôi. TCS viết như vậy trong bài Phác Thảo Chân Dung Tôi, đăng trong sách của Nguyễn Đắc Xuân, khi nói về 13 năm trốn lính trong đó có ba năm nhập cư nơi những căn nhà tiền chế tồi tàn bỏ trống ở khu đất rộng sau lưng trường. Thời gian ba năm, ăn uống thì ở các hàng quán dọc đường. Vệ sinh thì vào các quán cà phê quen thuộc. Nhưng cũng chính tại khu đất trường, TCS lần đầu tiên ra mắt trước mấy nghìn người 20 ca khúc nói về tình yêu, thân phận và quê hương. Sau đó, các báo, đài truyền thanh, truyền hình tranh nhau phỏng vấn, thu hình, thu mặt. Làm gì, đi đâu cũng có mấy nhà báo đủ các màu da, xứ sở tìm đến ở tận cửa. Và tuy có lệnh cấm của chính quyền và bị kiểm duyệt, các tuyển tập ca khúc của ông vẫn được in ấn và phát hành khắp nơi. Người em Trịnh Xuân Tịnh, cũng trốn lính, chăm lo việc này. 
 
Ngoài ra, những ai lui tới Quán Văn đều gặp nhưng tất cả đều mù tịt về tông tích của một người không tên. Anh ta ngọng, hơi bất thường, trạc 30 tuổi, dơ dáy, quần áo lôi thôi, cặp mắt sâu đen, lang thang khắp phố; tối về ngủ ở  hiên trường góc Nguyễn Trung Trực-Gia Long. Riết rồi quen thân với mọi người Ở Một Nơi Ai Cũng Quen Nhau; nhưng anh không là bạn của bất kỳ ai. Phạm Phú Minh cho biết, có lần anh ta đem cho chúng tôi mấy đồng đô la. Chắc có từ lính Mỹ vì anh không biết làm gì vớí tiền đó. Một bữa, ngẫu hứng, Phạm Phú Minh đặt tên Quasimodo cho anh ta, tuy không gù như nhân vật trong Notre Dame de Paris của Victor Hugo. Anh ta có vẻ khoái được gọi với cái tên Tây ngồ ngộ này. Phan văn Phùng, người cùng điều hành khu đất trống Văn Khoa, một hôm làm thầy bói tiên đoán, nếu vô sản thắng thì Quasimodo chắc sẽ là Đô trưởng Saigon; vì anh ta là vô sản thứ thiệt, biết hết ngõ ngách thành đô.
 
Thế rồi, mọi người tứ tán. Bông Hồng Quán Văn trôi về đâu? Riêng Quasimodo thì xuất hiện trong một truyện ngắn của Nguyễn Thụy Long (1938-2009) năm 2001. Nhà văn ở cùng trại với một tù nhân hình dạng dị hợm, hôi thúi. Y nằm sát cầu tiêu; bị bắt trong chiến dịch làm sạch thành phố, nhằm loại trừ những kẻ không giấy tờ. Cán bộ đặt tên cho y là Nguyễn văn Tèo. Một buổi sáng cán bộ trực phòng la lớn: thằng Ngợm Quái Vật trốn mất rồi. Thùng phân tung toé. Nó chui thoát qua lỗ cầu tiêu! Cuộc trốn trại không rùng rợn mà rùng mình. Bị bắt lại, cán bộ giám hiệu đứng trên thềm khung nhà vừa bịt mũi vừa hỏi mày tên gì? Ca.si.mo..do. Láo! Tên Tây! Nó bị lôi ra dìm dưới suối và cùm. Nhờ được giao dạy cho các tù nhân hình sự biết đọc, nên nhà văn lẽn đến chỗ cùm, cho y một tán đường và mì gói. Qua. Si.mo.do, tên của tôi trước kia. Tôi trốn đi, tôi muốn về nơi đó.  Chuyện xảy ra năm 1986.         
 
Sau 30/4/75 Tố Hữu dặn Nguyễn Đắc Xuân vào Saigon  nói với Phạm Duy và TCS hãy cứ ở đó chứ đừng đi đâu cả. Nhưng nhiều anh em Phong Trào ở Saigon không thích quan điểm lập trường chung chung của họ Trịnh; vì thế TCS về Huế để có bạn bè và để thoát không khí nghi kỵ. Sách còn cho biết tiếp, TCS không ngờ về quê hương lại bị dội một gáo nước lạnh. Huế cũng có phong trào “Hạ bệ Phạm Duy- Hoàng Thi Thơ và Trịnh Công Sơn”. Một buổi tối tọa đàm đã diễn ra  tại Hội Văn Nghệ để trả lời câu hỏi “TCS có công hay có tội?”. Nhờ xấp tài liệu báo Saigon đăng lệnh cấm phổ biến nhạc họ Trịnh có tính thuyết phục nên buổi tọa đàm đi đến kết luận: TCS có công lớn hơn có tội với cách mạng và giao cho một bạn trao đổi với TCS viết tự nhận xét về mình. Chưa quen với lối sinh hoạt nên khi bị Hoàng Phủ Ngọc Tường kêu làm lẹ đi, TCS có ý trách là bị ép..
 
Thời gian ở Huế là một giai đoạn thử thách ghê gớm đối với đời sống của TCS. Sách của Nguyễn Đắc Xuân, nhằm chứng minh TCS thuộc về bên này hay bên kia, viết rõ thêm, TCS có đi lao động sản xuất như mọi người chớ không đi lao động cải tạo và vì  “ăn ít uống nhiều”, ói mửa mật xanh mật vàng ngay tại chỗ nên càng ngày càng gầy rộc đi. TCS là anh cả, vốn dĩ được má và 14 em trai gái, dâu r chăm sóc rất chu đáo nên chuyện phải tìm cách chuyển công tác về lại Saigon năm 1978 là chuyện tất yếu. TCS  thích ăn ngon mặc đẹp; buổi sáng ra khỏi phòng quần áo đã tươm tất. Như Những Dòng Sông, sách của em rể Hoàng Tá Thích, do nhà xut bản Văn Ngh  in, cho biết TCS có cả một tủ quần áo, toàn đồ hàng hiệu và giày thì nhiều không đếm xuể; sắp hàng hàng lớp lớp; và thông thường có riêng hai người giúp việc; sau này còn có người thứ ba chuyên xoa bóp tay chân.
 
 
TCS chịu chơi
 
Tiện nghi vật chất quá dư thừa, lại có nhiều bạn mới thuộc đủ thành phần trong xã hôi ngưỡng mộ tài năng; nhưng theo Hoàng Tá Thích, những lúc buồn TCS hay để tâm trí quay về thời còn trẻ và chỉ ước ao có được một người bạn thuở xa xưa để cùng nhau tâm sự. Còn Nguyễn Đắc Xuân thì cho rằng: TCS đã chịu chơi  hơn Văn Cao, Hoàng Cầm, Trần Dần, Phùng Quán... là đã dn thân vào thc tế, viết phục vụ chính trị của đất nước hòa bình độc lập; có sáng tác mi như  Em ra nông trường, khóc cho những người bạn trẻ nm xuống; nhưng hơi nhạc chưa nhập được với nhịp điệu của cuộc sống mới. Trên tờ “Cửa Việt" trả lời câu hỏi tại sao so với trước năm 1975, ông viết ít đi và yếu đi, TCS nói, ông thấy một cái gì đó đã lệch đi trong đời sống tinh thần và tình cảm của mình và không còn bị cám dỗ bởi những giấc mơ nữa; đồng thời mất đi việc muốn trình bày điều mới lạ.
 
Một bạn cũ thời Quán Văn và Văn Khoa cuối năm 1999 gặp TCS tại Hội văn nghệ Sĩ ở Saigon sau hơn 30 năm xa cách; thấy bạn mình vẫn nụ cười hiền lành, nhưng buồn bã, vẫn từ tốn, phong nhã, vẫn đôi kính đồi mồi, nhưng trước mắt là một TCS bệnh hoạn, mệt mỏi. Từ Thức Trần Công Sung kể lại, TCS cho biết rượu đã tàn phá lá gan đến độ không có thuốc trị. Gợi ý về một chuyến đi ngoại quốc chữa bệnh, thăm bạn bè, TCS giọng t tn đáp, sang đó, sợ các ông ấy đập; sự thực bên Pháp không có vấn đề;  kỳ trước,anh em đãi ngộ rất t tế. TCS tiếp: nói cho đúng mình mệt lắm, có muốn cũng không đi được. Đưa số điện thoại nhà và dn: ráng đến chơi, mình có chuyện muốn nói. Thằng em mình, biết cậu về, chắc nó mừng lắm. Em TCS cũng hay la cà ở Quán Văn. Có lẽ TCS muốn nói những gì không thể nói được ở một nơi có nhiều người qua lại.
 
Từ Thức trong Trịnh Công Sơn và Những Ngày Văn Khoa, cho hay không có thì giờ tới nhà bạn nên chỉ gọi điện thoại giã từ. TCS giọng buồn: chắc mình không có dịp gặp lại anh em nữa. TCS ra đi ngày 1 tháng tư 2001, thọ 62 tuổi. Ngày tiễn anh về nơi an nghỉ cuối cùng, theo em rể Hoàng Tá Thichtại nghĩa trang, hàng ngàn người vây quanh mộ, vừa khóc vừa hát những ca khúc của anh từ Nối Vòng Tay Lớn, Diễm Xưa, đến Biển Nhớ, Mưa Hồng, Một Cõi Đi Về, Nhìn Những Mùa Thu Đi, hát mãi không ngừng. Ca khúc  Nối Vòng Tay Lớn cũng thường được hát trước 1975 trong giới sinh viên học sinh, khi quy tụ sinh viên hải ngoại trở về sinh hoạt ở miền Nam và trên đài Saigon ngày 30/4/75.  Mộ TCS nằm cạnh Má, đúngvới ý nguyện của anh trước khi nhắm mắt. Và Một Cõi Đi Về, Tiến Thoái Lưỡng Nan, Tôi Ơi Đừng TuyệtVọng không ai hát qua được tác giả.
 
Theo người em rể, những bạn bè mới sau ngày đất nước thống nhất không biết rõ cuộc đời anh mình. Đúng vậy.Trước năm 1975,Thiếu tá Không quân Bằng Phong Đặng văn Âu thường giao du với TCS. Một lần bàn về thời sự, Bằng Phong nói, lính tráng bọn này mới mong tiếng súng chấm dứt chớ đám phản chiến Ngô Bá Thành , Nguyễn Ngọc Lan,  Nhất Hạnh .. chỉ là phản chiến bịp. Họ có chết đâu? TCS trả lời là ông lên án cả đôi bên. Ông là một nghệ sĩ; không phải cán bộ tuyên truyền. Ông giải thích, Đàn bò vào thành phố, không còn ai hỏi thăm trong bài Du Mục nêu rõ cái nhìn của ông về cuộc nội chiến. Chuyện diễn ra năm 1972, thời mùa hè đỏ lửa tại nhà TCS trước chùa Vĩnh Nghiêm Saigon. Đặng văn Âu kể lại như vậy khi chúng tôi nhắc tới người bạn cũ, một nhạc sĩ tài hoa của miền Nam, có đủ tất cả tật xấu của con người; nhưng không đến độ như nhạc sĩ Phạm Tuyên, bố Phạm Quỳnh bị chết thảm, bị hạ nhục vẫn sáng mắt, sáng lòng ca tụng kẻ giết bố mình.
 
 
1
 
*
*   *    *
 
May có một thời như vậy, nên từ 1954-1975, theo Võ Phiến , miền Nam đã có một nền văn học thành hình thật nhanh, phát triển tưng bừng, vội vã. Sau tháng  4/75 cùng với chiến lợi phẩm và hàng tiêu dùng từ Nam tràn ngập Hà nội, các băng nhạc TCS và nhạc vàng đã chinh phục miền Bắc; dù rằng Cộng sản Việt Nam đã đốt phá năm lần, bảy lượt. Phỏng vấn của Thụy Khuê trong chương trình Văn học nghệ thuật RFI, ngày 14 và 21/6/2008 , nhà văn Vương Trí Nhàn đã thừa nhận Văn học miền Nam đã đi trước cũng như đã để lại những thành quả mà bây giờ chúng tôi không dễ gì vượt qua. Hơn 35 năm sau,  một bài báo trên Báo Thể Thao Văn Hoá ngày 16/11/10 cho biết, ở Hà nôi và Saigon , công chúng vẫn còn yêu thích những dòng nhạc cũ vì nó đã ăn vào lòng người nghe từ bao thập niên. Nó vẫn được đón chào, và giới trẻ còn thuộc lòng từng lời ca, điệu nhạc;  cả tên tuổi của từng ca sĩ sở trường thể loại nào. 
 
Cũng trong thời gian đó, ở miền Bắc vì văn học và nghệ thuật phải phục vụ Đảng nên nhạc sĩ Tô Hải, qua Hồi Ký của một thằng Hèn phải la lớn: Văn Học Nghệ Thuật ở Miền Bắcmột lỗ hỗng lớn. Nhà văn Vương Trí Nhàn trong phỏng vấn của Thụy Khuê còn nói rằng, nếu công nhận Văn học miền Nam thì Văn học miền Bắc coi như là thua, là kém, là không ra gì cả, thậm chí là hỏng, là vứt đi. Vì đâu nên nỗi?  Thay vì có một thời như thế lại có một thời bao cấp, nô lệ đàn anh Trung Quốc, Liên Sô, theo mô hình của họ: nắm bao tử, kiểm soát cái đầu. Bác và đảng muốn Việt Nam có nhịp thở đập theo những tín điều nhập khẩu từ các nước Nga Tàu. Ngòai ra, còn bị thiến. Họ thiến của tôi bộn bàng. Cụ Vương Hồng Sễn, la hoảng trong Nửa Đời Còn Lại khi bị nhà nước cắt bỏ quá nhiều. Thời đại văn thiến Hồ Chí Minh chỉ còn rặt một loại người Nói dối lem lẽm như Nguyễn Khải đã viết.  
 
 
Phan Thanh Tâm
Sain Paul, 12/2010

Monday, December 13, 2010

Cộng Đồng Tị Nạn Là Thành Phần Nào?



Chỉ trong mấy ngày gần đây, cọng đồng Việt-Nam tại California xôn xao với những tin tức được truyền ra theo đó chính trị gia và giới chức hành pháp ở San Francisco bao gồm ông Thị Trưỡng San Francisco Gavin Newsom, vị Phụ Tá Chủ Tịch Thượng Viện California Leland Y Yee và ngay cả ông Thống Đốc California Arnold Schwargenegger đã gởi văn thư  cho tòa Lãnh Sự  CSVN tại San Francisco, chúc  mừng ngày Quốc Khánh 2 tháng 9 năm 2009 của nước này.
Trên phương diện công pháp quốc tế cũng như ngoại giao, các văn thư chúc mừng khen ngợi, đánh bóng  chế độ, lãnh tụ các quốc gia khác là chuyện thường tình trong chính trị.  Nhưng ở đây có chuyện khác biệt:  văn thư đã xữ dụng và khen tặng cọng đồng tị nạn Việt-Nam như là những thần dân của chế độ CSVN, một “bán đứng” danh nghĩa của cọng đồng và rất hợp với nghị quyết 36 trong chính sách việt kiều. 


Tôi đã đọc email, những văn thư của các chánh khách trên cũng như đã xem qua 7 video clips của 2 ông Đỗ Vinh và Ngô Kỷ trình bày.  Danh từ các chính khách Hoa Kỳ này xữ dụng rất rõ ràng :người Mỹ gốc Việt (Vietnamese American).   Như ai cũng biết: cọng đồng người Mỹ gốc Việt là cọng đồng của những Việt người tị nạn cọng sản, di tản trong những ngày cuối cùng của chế độ VNCH, là những thuyền nhân trong suốt 20 năm (1975 -1995), là những người được chính quyền Hoa Kỳ cho đi trong chương trình di trú nhân đạo (HO) và những thân nhân đuợc các người đã tị nạn trước đó bão lảnh.  Dĩ nhiên nhân viên của tòa đại sứ CSVN, du học sinh cũng như những điệp viên, cán bộ cộng sản nằm vùng được gởi theo các đoàn tị nạn này, đang sống âm thầm không thể kể vào cọng đồng tị nạn được.
Thật không thể tin được đây là 1 lầm lẩn hành chánh ở cấp bang giao quốc tế mà thường những văn thư như thế này phải được nghiên cứu kỹ càng...  Tôi chia sẻ những xúc động của ông Ngô Kỷ khi ông đọc to văn kiện vinh danh cờ vàng 3 sọc đỏ theo sau đó là văn thư của ông Thống Đốc gởi Tòa Lảnh Sự CSVN ở San Francisco ca ngợi những đóng góp của cọng đồng người Mỹ gốc Việt nhân ngày Quốc Khánh 2009 của CSVN.  CSVN đang chơi trò chơi gì?  Không thể phân hóa, mua chuộc cọng đồng tị nạn, họ “chơi” ở cấp cao hơn:  nhờ chính quyền Mỹ đội cái nón cờ đỏ sao vàng cho cọng đồng tị nạn này?
Cách đây không lâu, cơ quan khai thuế IRS cho phát hành “cẩm nang” khai thuế cho người Việt và đã lầm lẫn dùng cờ đỏ sao vàng như là ký hiệu.  Họ đã phải thu hồi tất cả các ấn loát tính cho phát hành rộng rãi sau khi cọng đồng chúng ta nhất tâm phản đối.  Giờ đây, chúng ta có thể làm gì để yêu cầu Thống Đốc Cali cũng như những chính khách Hoa Kỳ giải thích những sự kiện này? – cũng như ngăn chận không cho nó tiếp tục phát triển trong tương lai? 
35 năm trước đây, để thỏa hiệp với Trung Cộng, Hoa Kỳ đã bỏ rơi VNCH.  Giờ đây, trở lại Việt-Nam để chận đứng sự bành trướng khó kiểm soát của Trung Cộng, họ có phải hay sẽ thỏa hiệp như thế nào với nhà cầm quyền CSVN? Để xóa bỏ những dấu tích của tội ác, CSVN đã từng áp lực các nước Mã Lai, Indonesia, Phillipine đục bỏ các di tích của thuyền nhân tại các quốc gia này.    Giữa quyền lợi của nước Mỹ và những giá trị đạo đức mà họ thường quảng bá, họ sẽ chọn cái gì?  Người ta còn nhớ trong lần đầu công du Trung Quốc bà Ngoại Trưỡng Hoa Kỳ đã nhắn gởi trước là sẽ không nói chuyện nhân quyền.  Còn đối với Việt-Nam ? - Nếu chỉ vì quyền lợi thì như  lời của 1 bình luận gia người Mỹ đã nói gần đây cho những chính khách này:  Thật ra người Mỹ cần Cộng Sản Việt-Nam hay Cộng Sản Việt-Nam cần người Mỹ hơn?  Nếu Cộng Sản Việt-Nam cần sự trở lại của người Mỹ hơn thì họa chăng lập luận của một số người cho rằng sự trở lại này sẽ có lợi cho công cuộc đấu tranh cho tự do và dân chủ Việt-Nam như người Mỹ có thể gây áp lực với nhà cầm quyền này.  Còn nếu ngược lại thì cọng đồng tị nạn Việt-Nam phải chuẩn bị cho 1 phản công mà cộng sản đã chờ đợi từ lâu bởi vì những gì người Mỹ phải làm trước hết là vì quyền lợi của họ.  Nếu vẫn còn không thấy điều đó thì chỉ tại người Việt-Nam tị nạn ưa mơ mộng mà thôi.
Tôi không quen ông Ngô Kỷ, ông Đổ Vinh, cũng chưa từng nói chuyện  với 2 ông này và cũng không biết những “tham vọng” chính trị nếu có của 2 ông.    Nhưng có thể nào chỉ dưới lá cờ tị nạn chúng ta gạt bỏ những khác biệt chánh kiến để đấu tranh cho tiếng nói thống nhất của chúng ta trên phần đất tự do cuối cùng này?  Chúng ta đã học được bài học gì trong các vận động của người Việt qua cuộc bầu cử vừa qua?  Ngay cả với sự đồng thuận tuyệt đối (12%), cọng đồng người Việt tại Nam Cali chúng ta cũng phải vất vả để có tiếng nói trước 62% của cọng đồng người Mễ và các cọng đồng còn lại.  Khác với các cọng đồng khác, cọng đồng tị nạn Việt-Nam không được yểm trợ của mẫu quốc mà ngược lại còn phải chiến đấu cho sự sống còn độc lập của mình.  Cho nên con đường phát triển của cọng đồng tị nạn Việt-Nam quả là cam go, phải gặp nhiều khó khăn hơn các cọng đồng khác, kể cả cọng đồng Do Thái. 
Giờ đây đã rõ ràng người Việt tị nạn không chỉ đơn giản chấp nhận 1 cuộc sống an phận trên vùng đất tự do này mà được.  Chế độ CSVN, cho đến ngày tàn lụi, sẽ không bao giờ tha thứ cho sự hiện diện của thành phần này.  Đó là một ung nhọt mưng mủ rất khó chịu trong tâm hồn của những người CSVN và là một hình ảnh đầy phản cảm của chế độ dưới quan sát của quốc tế.  Đó là tại sao họ họ phải tốn công triệt hạ các di tích tị nạn trên các quần đảo xa xôi ở Đông Nam Á.  Có thể nào người Việt tị nạn tiếp tục “ngây thơ” diễn dịch nghị quyết 36 qua những danh từ cao đẹp và giới hạn của nó? - Nếu vậy thì quả là “35 năm, 1 bài … không chịu học”! 
Giờ đây, là công dân của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, người Việt tị nạn có thể yên thân sống với những thành tựu nho nhỏ của mình và gia đình mình, cho dù ở San Francisco đang treo cờ gì hay đang đội cho họ cái mũ màu gì?  Có thể nào thành quả đã được thế giới biết đến của người tị nạn Việt-Nam đành phải “chào thua” trước những thỏa mãn dừng lại và những phân hóa đi từ bản chất(?)  cũng như những vận động khuấy phá của CSVN đang âm mưu bôi xoá những di tích nhân bản này của loài người?


TRANG HIEN VO



Thursday, December 9, 2010

Trận chiến Mỹ-Hoa đã khởi sự


Biến hóa vô lường

Nhiều người Việt chúng ta cứ hỏi nhau, rằng liệu chiến tranh giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ có xảy ra không? Câu trả lời phải là “chắc chắn!” Miễn là ta định nghĩa cho đúng thế nào là chiến tranh! Thực tế thì chiến tranh đã xảy ra rồi, với nhiều dạng biến hóa vô lường. Câu hỏi mà mình cần nêu ra là “trong hoàn cảnh đó, Việt Nam phải làm gì...?” Câu hỏi ấy, xin để kỳ khác!

Trước hết, hãy nói về định nghĩa.

Người ta thường nghĩ chiến tranh là xung đột bằng võ lực giữa hai tập thể chính trị. Nhưng từ ngàn xưa rồi, các nhà lãnh đạo xuất chúng đều chỉ ra rằng võ lực là giải pháp tệ nhất. Lý tưởng là phải đạt mục tiêu của tập thể, thí dụ như quốc gia, mà khỏi phải dụng binh. Vì vậy, chiến tranh vẫn có thể bùng nổ mà không có tiếng đạn bom sát phạt. Nó bùng nổ dưới nhiều dạng khác, như chính trị, ngoại giao, kinh tế, tuyên truyền, v.v... và nó vận dụng những phương tiện càng bất ngờ càng hay. Trong thế kỷ 21 này, loại phương tiện ấy thật ra dồi dào và bất lường - có khả năng lường gạt - hơn hẳn những gì mà loài người có thể nghĩ tới trong suốt mấy chục thế kỷ trước.

Dù phương tiện có khác xưa, chứ ý chí thì không đổi. “Binh bất yếm trá”, ai cũng biết thế. Nhưng, phàm về cách dụng binh thì “toàn quốc vi thượng” - giữ được sự an toàn cho quốc gia mới là thượng sách. “Không đánh mà khuất phục được quân của người thì mới là người giỏi trong những người giỏi”, một nhà chiến lược Trung Hoa đã nói vậy từ mấy ngàn năm trước! Nói cho dễ hiểu thì... phản chiến mà vẫn thắng thì mới là giải pháp lý tưởng.

Trong tình huống đó, chiến tranh giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ đã thực tế xảy ra. Gần đây, những vận động ồn ào về võ khí hay quân sự chỉ là phần biểu hiện ở mặt ngoài cho nhu cầu chiến thắng, và khuất phục, mà khỏi cần lâm chiến.

***

Nhìn từ Hoa Kỳ thì 10 năm sau khi chính quyền Mỹ mở cửa cho Trung Quốc gia nhập Tổ Chức Thương Mại Thế Giới WTO, ngày nay lãnh đạo Bắc Kinh đã gây thêm vấn đề cho cộng đồng thế giới và đe dọa an ninh lẫn quyền lợi của nước Mỹ. Ba lãnh vực đáng chú ý là 1) thế giới, 2) an ninh và 3) quyền lợi kinh tế.

Trung Quốc tiếp tục phổ biến kỹ thuật và võ khí tàn sát cho các chế độ hung đồ được Bắc Kinh bao che và bảo vệ. Trung Quốc bành trướng sức mạnh quân sự và cả phương tiện chiến tranh phi quân sự và phi quy ước, và đe dọa an ninh của nhiều quốc gia tại Ðông Á, không riêng gì Ðài Loan. Tại Á Châu, Bắc Kinh không tham gia vào nỗ lực quốc tế của Liên Hiệp Quốc hay Minh Ước NATO để góp phần ổn định tình hình, thí dụ như tại Pakistan, Afghanistan hay toàn cõi Trung Á, mà còn khai thác nỗ lực đó của quốc tế để bảo vệ quyền lợi quốc gia. Ðấy là một vấn đề cho thế giới.

Bắc Kinh còn đẩy mạnh nỗ lực lũng đoạn, tình báo và xâm nhập điện toán nhắm thẳng vào Hoa Kỳ và đe dọa hạ tầng cơ sở điện tử của Mỹ. Bắc Kinh không chỉ kiểm soát và điều hướng thông tin và tuyên truyền trong lãnh thổ mà còn mở chiến dịch vận động ra ngoài. Và nhắm vào dư luận Hoa Kỳ, để tạo ra ấn tượng sai lạc về bản chất của Trung Quốc, về mối quan hệ Mỹ-Hoa và về Hoa Kỳ. Bắc Kinh không chỉ tác động vào dư luận các nước khác mà còn tận dụng các doanh nghiệp du thuyết - lobby - Mỹ để lung lạc chính trường, chánh sách và công chúng Mỹ. Quốc Hội Mỹ đã được báo cáo như vậy.

Về chiến lược phát triển, việc cải cách kinh tế mà Trung Quốc tiến hành từ ba chục năm qua không áp dụng quy tắc thị trường mà nhắm vào một sách lược kỹ nghệ có chọn lọc, có trợ cấp, để đẩy mạnh xuất cảng. Vì vậy, trong quan hệ kinh tế giữa hai nước, Trung Quốc đạt lợi thế đáng kể - xuất siêu rất cao - nhờ kềm hãm tiêu thụ và gia tăng tiết kiệm nội địa qua chế độ hối đoái giả tạo và qua quy chế mậu dịch lệch lạc so với quy định của WTO. Với khối dự trữ ngoại tệ cực lớn, Trung Quốc có khả năng tác động vào luồng trao đổi toàn cầu và vào thị trường tài chánh Hoa Kỳ - lẫn giá trị của đồng Mỹ kim.

Vì sự ổn định của thế giới lẫn sự an toàn và quyền lợi kinh tế của mình, Hoa Kỳ cần quan niệm lại đối sách với Trung Quốc. Lãnh đạo Hoa Kỳ đã từng mong muốn xứ này phát triển trong ổn định, thành đối tác biết điều có khả năng góp phần bảo vệ hòa bình và thịnh vượng cho nhân loại. Nhưng dù mong muốn như vậy và hợp tác với Bắc Kinh trong tinh thần đó, Hoa Thịnh Ðốn vẫn phải tự chuẩn bị cho tình huống bất lợi, xuất phát từ những tính toán của Bắc Kinh.

Nhìn từ Bắc Kinh thì đây là một quyết định thù nghịch!

***

Lãnh đạo Bắc Kinh cho rằng thế giới đã có thái độ bất công với Trung Quốc từ 150 năm nay rồi và họ có nhiệm vụ cải sửa sự bất công ấy.

Trong hai chục thế kỷ, Trung Quốc đã là siêu cường toàn cầu - khi toàn cầu mới chỉ là đại lục địa Âu-Á. Tình trạng ấy chấm dứt vào giữa thế kỷ 19, khi Trung Quốc lụn bại và bị liệt cường xâm lấn và sâu xé, rồi trôi vào nội chiến cho tới ngày đảng Cộng Sản đại thắng. Việc giành lại chủ quyền tại Hong Kong và Ma Cao và việc giải phóng Ðài Loan là một nhiệm vụ lịch sử của đảng.

Sau khi tiến hành cải cách kinh tế, Trung Quốc bắt đầu công nghiệp hóa và cố thu hẹp khoảng cách tụt hậu với thế giới. Ðảng Cộng Sản đã áp dụng chiến lược kinh tế đúng đắn để đưa xứ này thành đại cường kinh tế và tất nhiên phải giành lại ngôi vị siêu cường chính đáng của mình. Tuy nhiên, khác với lịch sử mấy ngàn năm, tiến trình kỹ nghệ hóa đòi hỏi Trung Quốc phải mở cửa giao thiệp với bên ngoài để bảo đảm nguồn cung cấp nguyên nhiên vật liệu và khuếch trương các thị trường xuất cảng.

Nhằm bảo vệ quyền lợi kinh tế chính đáng, Trung Quốc phải có phương tiện quân sự tương xứng.

Từ ngàn xưa, Trung Quốc từng bị các dị tộc tấn công từ hướng Tây và mạn Bắc, cho nên việc xây dựng vùng trái độn quân sự ở khu vực ngoại biên là đòi hỏi chiến lược. Khởi đầu là Vạn Lý Trường Thành ở mạn Bắc và chế độ “đồn điền” - kinh tế quân sự - ở Cao nguyên Thanh Tạng, Tây Vực, Mông Cổ và Mãn Châu. Trong thế kỷ 20, Trung Quốc còn bị tấn công từ hướng Ðông, từ vùng duyên hải, cho nên khái niệm “vùng trái độn quân sự” tất nhiên phải mở rộng.

Với công cuộc phát triển và nhu cầu bảo đảm thị trường cùng nguồn cung cấp trên toàn cầu, Trung Quốc phải thành đại cường hải dương. Trước hết phải xây dựng vùng trái độn rộng lớn và vững mạnh hơn. Trong bước đầu của một tiến trình lâu dài, Bắc Kinh phải kiểm soát được vùng biển cận duyên, biển xanh lục, để rồi sẽ kiểm soát được vùng viễn duyên, biển xanh dương. Trung Quốc phải làm chủ tình hình từ Thái Bình Dương qua Ấn Ðộ Dương lên tới Hồng Hải vào Trung Ðông, xuống tới vùng biển tiếp giáp với Châu Phi.

Vì thế, vùng biển xanh lục quan lãnh thổ, trải dọc từ Hoàng Hải bên bán đảo Triều Tiên xuống tới eo biển Ðài Loan rồi Trung Nam Hải - Ðông Hải của Việt Nam - trở thành vùng quyền lợi cốt lõi. Ðó là “hạch tâm lợi nghĩa”. Nghĩa vụ bảo vệ quyền lợi tâm huyết của tổ quốc. Nó cũng quan trọng như Ðài Loan, Tây Tạng hay Tân Cương.

Huống hồ, khu vực cận duyên ấy còn có tiềm năng rất lớn về kinh tế nằm sâu ở dưới, từ đảo Ðiếu Ngư Ðài / Senkaku đang tranh chấp với Nhật Bản đến Hoàng Sa đã cướp của Việt Nam và Trường Sa đang lấy của Việt Nam và các nước Ðông Nam Á khác.

Nhìn từ Bắc Kinh ra thì suốt 500 năm qua, các nước Âu Châu, rồi Mỹ, Nhật, Nga hay Liên Xô đều đã lý luận và thực hiện việc đó qua đường lối ngoại giao pháo hạm hoặc khuynh đảo trắng trợn. Ngày nay, các nước lại muốn cản trở nỗ lực phát triển chính đáng của Trung Quốc và tìm cách be bờ nên lãnh đạo không thể nhượng bộ được. Cho dù chưa có sức mạnh quân sự tương xứng, Trung Quốc vẫn có thể chống trả bằng hình thái chiến tranh bất cân xứng, bằng phương tiện phi quy ước của thế giới hiện đại.

Ðó là những suy tính “khách quan” của đôi bên.

***

Xưa kia, Ðặng Tiểu Bình khéo căn dặn đảng là phải kín đáo phát triển chứ đừng tỏ lộ ý chí bành trướng vì cần mối giao hảo tốt với thế giới để cải cách kinh tế. Từ Giang Trạch Dân trở về sau, lãnh đạo Bắc Kinh có thêm tự tin và bộc lộ ngày càng rõ hơn tinh thần bành trướng mà họ cho là chính đáng. Khẩu hiệu “phát triển trong hòa bình” chỉ là khẩu hiệu, vì hòa bình phải có nghĩa là hòa bình trong trật tự Trung Quốc.

Việc Mỹ mắc bận với cuộc chiến chống khủng bố Hồi Giáo và vướng chân vào hai chiến trường Iraq và Afghanistan là cơ hội bằng vàng để Bắc Kinh vừa bành trướng thế lực vừa gây chướng ngại cho Mỹ, vừa tỏ vẻ ôn hòa hợp tác chống khủng bố, nhưng là khủng bố Hồi Giáo tại Tân Cương thôi!

Nối tiếp thời cơ thuận lợi ấy cho Bắc Kinh là chuỗi khủng hoảng tại Hoa Kỳ: kinh tế suy trầm, thất nghiệp tăng vọt, quốc gia mắc nợ, lãnh đạo lúng túng đấu khẩu khi dân chúng lại sắp đi bầu. Trong khi ấy, kinh tế Trung Quốc vẫn tăng trưởng mạnh, lại vượt qua Nhật Bản và có khi sẽ bắt kịp Mỹ trong vòng hai chục năm tới.

Vì vậy mà Bắc Kinh đã đơn phương cắt đứt việc đối thoại về quân sự, Chủ Tịch Hồ Cẩm Ðào bãi bỏ chuyến Mỹ du vào tháng tới và đôi bên đều xẵng giọng, khiến thiên hạ mới tự hỏi là chiến tranh có bùng nổ giữa hai nước hay không.

Chiến tranh đã thực tế xảy ra khi quan hệ đôi bên về kinh tế, chính trị và quân sự đã rẽ qua hai ngả không thể hàn gắn. Nhưng nó xảy ra không có tiếng nổ. Ðó là một cuộc đấu tranh đa diện tới độ toàn diện, nếu có bạo lực thì đấy chỉ là tai nạn mà đôi bên đều muốn tránh. Bất chiến mà tự nhiên thành mới là mưu cao chước lạ. Chung quanh, sẽ có xứ mang vạ, có xứ kiếm lời...

***

Trước hết là trận tuyến ngoại thương vì kinh tế cũng là chính trị.

Ngược với chủ trương từ trăm năm nay, từ tháng 3, Hoa Kỳ ban bố “quốc sách xuất cảng”. Thay vì mở rộng thị trường để nhập cảng từ các nước và dùng đó làm lợi thế ngoại giao và an ninh, ngày nay Hoa Kỳ phải hạn chế nhập cảng và đẩy bộ máy công quyền vào hỗ trợ doanh nghiệp xuất cảng hầu tạo thêm công ăn việc làm cho người dân. Nhìn từ Bắc Kinh, đây là quyết định tuyên chiến vì đánh thẳng vào chiến lược kinh tế dựa vào xuất cảng của Trung Quốc.

Hoa Thịnh Ðốn không chỉ tuyên chiến bằng cách ra lệnh cho các phủ bộ phải yểm trợ xuất cảng - y như Bắc Kinh đã làm - mà còn liên tục khiếu kiện Bắc Kinh trước cơ chế WTO và nêu vấn đề về hối suất đồng Nhân Dân tệ. Vốn dĩ dễ bảo, các doanh nghiệp Mỹ nay lại tỏ vẻ thất vọng về thị trường Hoa Lục. Họ còn nói đến việc triệt thoái để đầu tư tại nơi khác, có lời hơn hoặc ít bị kiểm soát hơn. Một trong những nơi đó là Ðông Nam Á, với dân số gần 600 triệu, có sẵn quy chế hợp tác cấp vùng và trình độ sản xuất dù sao cũng cao hơn, luật lệ phân minh hơn...

Với Bắc Kinh, chiến tranh kinh tế đã bắt đầu - bằng trận chiến mậu dịch. Chỉ giữa các quốc gia đang giao thương với nhau thì chiến tranh kinh tế mới xảy ra khi quyền lợi hết tương đồng và mọi tương nhượng đều đụng vào lằn ranh chính trị của lãnh đạo. Trước đại hội đảng khóa 18 tại Trung Quốc và tái bầu cử tổng thống tại Hoa Kỳ, cùng tiến hành vào năm 2012 này, cả Hồ Cẩm Ðào lẫn Barack Obama đều hết đất lùi.

Thế rồi, vừa mon men xuống Ðông Hải, Bắc Kinh gặp lại Hoa Kỳ, siêu cường toàn cầu có sức mạnh hải dương vượt xa tổng lực của tất cả các nước khác. Mâu thuẫn chính trị vì vậy bùng nổ vì quyền lợi khách quan của hai nước.

Trung Quốc vừa xây dựng khu vực tự do mậu dịch với Hiệp hội ASEAN, thì Mỹ tung sáng kiến Ðối Tác Liên Thái Bình Dương để lôi kéo Việt Nam, Singapore cùng các nước Thái Bình Dương tại Nam Mỹ. Bắc Kinh muốn bẻ đũa từng chiếc qua phép đàm phán và mua chuộc song phương với từng nước trong Hiệp hội ASEAN của 10 quốc gia Ðông Nam Á thì Hoa Kỳ vận động tập thể ASEAN cùng thống nhất đường lối chính trị và ngoại giao, là bảo vệ quyền lợi chung về kinh tế và vận chuyển hàng hải tự do trong vùng biển Ðông Nam Á. Ðã vậy, Hoa Kỳ còn lấn vào sân sau của Trung Quốc vì đòi hợp tác với các nước Việt, Miên, Lào, Thái trong lưu vực sông Mekong.

Khi Ngoại Trưởng Hillary Clinton nói mạnh tại Hà Nội thì Tổng Trưởng Quốc Phòng Robert Gates tới Jakarta tăng cường quan hệ quân sự với Indonesia. Thậm chí tái tục việc hợp tác với lực lượng ưu binh Kopassus của xứ này. Mục tiêu vẫn là bảo vệ eo biển Malacca, một yết hầu của sự chuyển vận từ Thái Bình Dương qua Ấn ÐộD. Tuần qua, khi Trung Quốc lẻn xuống sân sau của ASEAN để hợp tác quân sự với xứ Ðông Timor nhỏ xíu thì Úc Ðại Lợi, một đồng minh chiến lược của Mỹ, lại lên tiếng báo động!

Như vậy, với Bắc Kinh, Hoa Kỳ đã lặng lẽ khai chiến về ngoại giao và chính trị.

Ðấy là bối cảnh của những chuyển động hải quân đang làm Thái Bình Dương nổi sóng: Hai lần thao diễn quân sự giữa Nam Hàn và Hoa Kỳ, xen kẽ là cuộc tập trận để thị uy của Trung Quốc và việc hàng không mẫu hạm USS George Washington ghé Việt Nam, rồi cuộc thao dượt giữa hải quân Hoa Kỳ và Việt Nam! Kết quả thì các nước ráo riết trang bị võ khí - mua của Mỹ...

Về phía Hoa Kỳ, Hoa Thịnh Ðốn đang chứng minh sự khả tín - đáng tin - của mình với các quốc gia Ðông Nam Á vốn dĩ cứ e là gây hiềm khích bất lợi với Bắc Kinh trong khi Mỹ vẫn thờ ơ vì bận chuyện khác. Thực tế thì Hoa Kỳ chỉ quay lại củng cố quan hệ với các đồng minh cố hữu đã bị lãng quên từ sau Chiến Tranh Lạnh rồi gần chục năm đối phó với khủng bố. Lý luận của Mỹ là Hoa Kỳ chỉ tăng cường sự hợp tác bình thường với các đối tác Á Châu, siết chặt quan hệ song phương vốn dĩ đã có từ lâu và khẳng định quyền tự do di chuyển của các hạm đội Mỹ ở Tây Thái Bình Dương, như tại mọi vùng biển khác của địa cầu.

Hoa Kỳ càng có nhu cầu ấy khi thấy Bắc Kinh không hề có thiện chí giải quyết mối nguy Bắc Hàn sau vụ chiến hạm Nam Hàn bị bắn chìm hồi tháng 3 và cũng chẳng muốn can ngăn Iran chế tạo võ khí hạch tâm. Với nước Mỹ, Trung Quốc không là một cường quốc biết điều và có trách nhiệm về thiên hạ sự và vì vậy, nếu để Bắc Kinh tiếp tục lấn lướt tại Ðông Á thì mặc nhiên Hoa Kỳ khuyến khích sự bành trướng. Ðiều ấy sẽ ảnh hưởng đến đối sách của các nước trong vùng. Và cuối cùng thì sẽ xâm phạm vào an ninh của Hoa Kỳ.

Về phía Trung Quốc, Bắc Kinh coi đây là một khiêu khích quân sự vì lấn vào vùng trái độn ngoài biển của mình và còn là bước đầu của cả một chiến lược bao vây. Bắc Kinh cho rằng Mỹ phải ráo riết tiến hành việc ngang ngược đó trước khi Trung Quốc có thể khai thác khoảng trống thuận lợi hiện nay để hoàn toàn làm chủ tình hình ngoài Ðông Hải.

Vì vậy, dù súng chưa nổ, hai nước bắt đầu nhập trận, trước tưởng là giả mà hóa là thật. Và là một cái thật thiên biến vạn hóa từ một quốc gia dầy kinh nghiệm về chiến pháp là Trung Quốc với quốc gia siêu hạng về kỹ thuật và đã tích tụ đủ loại kinh nghiệm tinh ma của thế giới là Hoa Kỳ.

***

Ðoạn kết ở đây phải là chuyện Việt Nam.

Vào thế kỷ 19, khi nhà Ðại Thanh bắt đầu lụn bại vào đời Gia Khánh thì cuộc chiến Hoa-Pháp đã xảy ra - tại miền Bắc Việt Nam - với sự can dự của binh lính nhà Thanh và Lưu Vĩnh Phúc. Và với thành tích của quân Cờ đen hai lần giết chết tư lệnh Pháp tại chiến trường Hà Nội là Ðại Úy Francis Garnier năm 1873 rồi Ðại Tá Henri Rivière năm 1883. Khi ấy, dân ta có lẽ cũng chẳng biết gì về trận chiến Hoa-Pháp. Sau lần đó, Pháp thắng, Tàu thua, Việt Nam mất độc lập.

Gần trăm năm sau, sau chiến thắng của Mao Trạch Ðông năm 1949, và chiến tranh Cao Ly năm 1950-53, cuộc chiến Hoa-Pháp lại tái diễn dù chẳng có khai chiến - mà vẫn trên lãnh thổ Việt Nam. Việt Nam tưởng là đang làm cách mạng! Kết cuộc, Pháp thua tại Ðiện Biên Phủ và đảng Cộng Sản tưởng mình thắng nên còn đòi lấn tới, như một mũi xung kích của Trung Quốc.

Hoa Kỳ bước vào và xung đột Mỹ-Hoa lại bùng nổ như đã bùng nổ tại Triều Tiên - nhưng trên lãnh thổ Việt Nam - trong cuộc chiến ủy nhiệm lồng vào Chiến Tranh Lạnh giữa hai khối Cộng Sản và Tư Bản. Lần đó, Việt Nam Cộng Sản được tiếng thắng Mỹ nhờ những dàn xếp giữa Hoa Thịnh Ðốn và Bắc Kinh. Nhưng Hoa Kỳ thắng lớn vì đóng cái nêm vào liên minh Nga-Hoa và khiến Liên Xô hụt hơi mà tan rã vào năm 1991.

Rồi từ đấy, Việt Nam tuột dần vào quỹ đạo Trung Quốc và nay trở thành “vùng trái độn” trên đất liền, theo quan niệm của Bắc Kinh. Trong khi ấy đại đa số dân chúng và cả đảng viên đều thấy hợp tác với Hoa Kỳ mới giúp cho quốc gia phát triển. Một mâu thuẫn kỳ lạ!

Bây giờ, khi Trung Quốc đụng độ với Hoa Kỳ, làm sao Việt Nam có thể tránh được thắng lợi giả mà là tai họa thật cho dân tộc như đã từng thấy trong lịch sử? Ði dưới chân Trung Quốc thì được gì, mất gì? Mà ai được, ai mất? Ngả theo Hoa Kỳ thì bị rủi ro gì, nhiều người Việt không quên được, kể cả và nhất là những người Việt đang sống tại Mỹ. Còn giải pháp nào khác không?

Người Việt khó nhìn ra giải pháp nếu không thấy là hai cường quốc này đã thực tế lâm trận, theo kiểu thiên biến vạn hóa của họ... Và càng khó nhìn ra giải pháp nếu bị lãnh đạo ở Hà Nội bịt mắt.


Nguyễn Xuân Nghĩa


Thursday, December 2, 2010

THEO CHÂN VIỆT SỬ, TÌM VỀ PHẬT GIÁO VIỆT NAM





           Các nhà nghiên cứu xưa nay, qua hai từ ngữ BỤT và PHẬT, đã kết luận rằng Phật giáo đã truyền vào VN từ đầu tây lịch, bằng hai con đường qua Ấn Ðộ và Trung Hoa. Do giáo lý nhà Phật về luân hồi, nhân quả, nghiệp chướng.. rất gần gũi với tâm tình của tầng lớp người bình dân nông thôn, miền biển và lao động.. nên đã nhanh chóng đi vào đời sống của dân tộc. Ngoài ra những kinh điển của Phật giáo bằng chữ Hán, từ Trung Hoa truyền sang, lại đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của tàng lớp quan lại trí thức trong nước thời đó, vốn được đào tạo bằng Nho học. Chính sự hòa hợp này, đã tạo thành Phật giáo VN với những sắc thái đặc thù phổ quát, thường trưc và đồng hành với lịch sử Việt, bằng tất cả tinh hoa, hùng tâm, thần trí và đại lực.

            Ðặc tính huyền diệu cao thâm của Phật giáo VN là cứu khổ cứu nạn cuộc đời, cho nên người Phật tử VN lúc nào cũng vững lòng bền chí trong mọi hoàn cảnh, vì bên cạnh luôn luôn có Ðức Thế Tôn, đầu trần chân đất, lặn lội khắp nhân gian, để mà phổ độ chúng sinh. Ðây chính là lý tưởng của Phật Như Lai ngay khi còn là Tất Ðạt Ða, luôn nhập thế ở giữa cuộc đời, chứ không bao giờ xuất thế, cho nên nói ‘ Phật tại tâm ‘ là thế đó.. Tóm lại tôn chỉ của Phật giáo VN là nhập thế và sinh phong vào đời, để phụng sự dân tộc, phát triển đất nước và khai phóng mọi người, đến cõi chân thiện mỹ, mà nhân gian quen gọi là chốn cực lạc.

            Bởi vậy cho nên khắp hang cùng ngõ hẹp, qua mọi nẽo đường đất nước, không có nơi nào không có bóng dáng ngôi chùa, cho dù ở thành thị náo nhiệt hay chốn thôn ổ đìu hiu, ngôi chùa vẫn trầm mặc hương khói, hòa quyện cùng tiếng chuông mõ niệm kinh, để rồi theo gió, trãi ra mênh mông như muốn xóa nhòa tất cả những phiền muộn của cuộc đời, mang lại niềm thanh thản, hạnh phúc, trong lòng mọi người.

            Sử đã viết, đời Lý lấy đạo Phật làm quốc giáo, nên đã đạt được nhiều thành tựu hiển hách, xây dựng Ðại Việt thành một quốc gia văn hién bề thế, tạo điều kiện để cho nhà Trần, qua các vị vua anh minh Thái Tôn, Thánh Tôn, Nhân Tôn.. có dủ sức mạnh, đánh đuổi được Ðế quốc Nguyên-Mông, ba lần xăm lăng nước ta. Ngoài ra đời Lý cũng là triều dại đầu tiên trong giòng Sử Việt, đã phục hưng lại truyền thống và tập tính của dân tộc, đã bị người Tàu nhồi sọ, qua mười thế kỷ đô hộ. Qua ý thức phát xuất bằng từ tâm của người Phật tử, các vị vua nhà Lý đã dấn thân nhập thế, cấm chỉ việc tra tấn ngược đãi tù nhân, cung cấp đầy đủ cơm áo cho , với tấm lòng ‘ thương người như thể thương thân.

            Trong lãnh cực văn hóa, đời Lý qua các kỳ thi tuyển chọn nhần tài phục vụ cho dất nước, nội dung thi cữ vẫn là đề tài từ các học thuyết của Tam giáo (Phật, Nho, Lão) . Với các vị Thiền sư thời Lý-Trần, đã trị nước bằng những ứng dụng tâm thức tu hành theo giáo lý của Ðức Phật. Ðó chính là những khải thị về không gian mà Ðức Phật đã nhập pháp giới trong kinh Hoa Nghiêm ‘ Mười phương thế giới đồng nhất thể ‘ hay mở bày ý niệm về thời gian, trong kinh Kim Cang ‘ Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc ‘.

            Mới đây, người ta đã tìm thấy một pho Kinh Phật bằng đồng, được xem là cổ nhất, tại chân tháp Viên Quang, chùa Phât Tích, thuộc Huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (Bắc phần). Pho kinh là hai lá đồng mỏng 1,5mm, khổ 11cm x 17cm, trên khắc chữ Hán, được khâu dính lại bằng một sợi dây đồng.. Ðây là bộ Ba La Mật Tâm Kinh, một bộ kinh rất quan trọng của Phật giáo. Ngoài ra cuối bản đồng, còn ghi rõ là cùng khắc chung, còn có nhiều bộ kinh khác như Pháp Hoa, Lương Hoàng, Ðịa Tạng, Kim Cương Dược Sư, Di Ðà, Quan Âm.. tất cả các bộ kinh kể trên không tìm thấy.

            Theo các nhà sử học và biên khảo trong nước, thì Bộ Kinh Phật bằng đồng trên, là một quốc bảo, có từ thời nhà Lý khi thực hiên khắc kinh trên đồng, với tâm nguyện mong cho quốc đạo trường tồn vĩnh cửu. Theo sử liệu, Phật tích , Chùa Dậu (Kinh đô Phật giáo Lủy Lâu, xây dựng từ thế lỷ thứ II sau TL ) và Chùa Bút Tháp, được xem là Trung tâm Phật giáo đời Lý.

            Nói chung các đời Ngô, Ðinh, Lý, Trần.. đều mộ đạo Phật nên đã xây dựng rất nhiều chùa chiền khắp nước. Nhiều vị cao tăng như Khuông Việt, Vạn Hạnh, Từ Ðạo Hạnh, Không Lộ, Mãn Giác.. được triều đình phong chức quốc sư, nên đã góp phần rất lớn với quốc gia, trong việc đánh bại quân xâm lăng Tàu và Mông Cổ, khi chúng tấn công nước ta.

            Sau khi Lê Lợi bình định được giặc Minh, thành lập nhà Hậu Lê, chọn Nho học làm quốc giáo, coi thường đạo Phật nhưng ảnh hưởng của tôn giáo này vẫn không hề sút giảm chút nào, trái lại tín đồ Phật giáo càng lúc càng đông , vì từ xa xưa người dân trong nước đã có quan niệm, nơi nào có chùa là có Phật. Cho nên chỉ cần đi lễ chùa, học giáo lý và tu niệm theo nhà Phật, đã là Phật tử của Phật môn.

            Thời Pháp thuộc, thực dân Pháp áp chế nhà Nguyễn, mươn lệnh triều đình Huế để ban hành sắc lệnh, qui định Phật giáo là một tôn giáo phụ. Tuy nhiên điều này, chẳng những không làm sút giảm uy thế ngàn đời của đạo, mà còn tạo cơ hội để Phật giáo bành trướng mạnh mẽ thêm khắp mọi nẻo đường đất Việt. Ðặc điểm của Phật giáo VN, là từ lúc du nhập vào VN cho tới đầu thế kỷ thứ XIX, đã không có một hệ thống lãnh đạo thống nhất, dù lúc đó Phật giáo vẫn là một tôn giáo lớn và có nhiều tín đồ nhất tại VN.

            Năm 1931 một đại hội Phật giáo đầu tiên , do Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học, được nhóm họp tại Sài Gòn. Kế tiếp là các đại hội khác cũng được tổ chức tại Trung Việt năm 1932 và Bắc Việt năm 1934. Cả ba đại hội đều chung một mục đích : Chỉnh đốn Thiền Môn, Vãn hồi quy giới, giáo dục tăng ni và phổ thông đạo pháp bằng tiếng Việt.

            - Ngày 6/5/1951, nhóm họp Phật giáo toàn quốc tại Huế.
            - Năm 1955, Giáo Hội Phật giáo Thống nhất VN được thành lập và chính thức hiện hửu từ ngày 4-1-1964.

            Hiện nay tại VN, Phật giáo có nhiều hệ phái đang hoạt động :
            - Giáo hội Phật giáo nguyên thủy (Theravada) , thuộc Phật giáo Tiểu Thừa.
            - Giáo hội Phật giáo cổ truyền
            - Phật giáo Hoa Tông (của Người Việt gốc Hoa).
            - Thiên Thai Giáo Quán Tông.
            - Tịnh Ðộ Tông
            - Phật Giáo Hòa Hảo..

            Từ sau ngày 1-5-1975,Cộng Sản Hà Nội dùng đạn súng hợp nhất Phật giáo cả nước thành Giáo Hội Quốc Doanh, đặt Cáo Hồ ngang hàng với Chư Vị Bồ Tát, do cán bộ tôn giáo của Ðảng lãnh đạo. Năm 1981, Giáo Hội PG.VN Thống nhất, bị VC ra lệnh sáp nhập vào Phật giáo nhà nước. Tuy nhiên đó chỉ là lệnh và tuyên truyền, vì từ năm đó cho tới ngày nay, Giáo Hội Phật Giáo VNTN (GHPGVNTN) , chưa hề tham gia vào bất cứ một cơ cấu tôn giáo nào của đảng CSVN, nên đã bị VC đàn áp dã man và đặt ra ngoài vòng pháp luật. Mới đây, trong kỳ Ðại Hội Ðảng lần X, lần nửa VC lại to tiếng phủ nhận sự hiện hưu của Giáo Hội PG.VNTN trong nước. Tuy nhiên đó là lời đảng , còn dân chúng VN bao đời đã trải qua không biết bao nhiêu lần pháp nạn, cho nên đâu có ai thèm để ý làm gì những nghị quyết này nọ, trong lúc cuộc sống cơm áo thêm phần khó khăn, trước thảm trạng tham nhũng từ trên xuống dưới của VC .

Tại Bình Thuận, theo tài liệu của Tâm Quang viết trong ‘Giai Phẩm Bình Thuận Xuân Canh Thìn’ thì khoảng năm Ðinh Tỵ (1677) ở Ðàng Trong, Thiền sư Nguyễn Triều Siêu Bạch, thuộc thiền phái Lâm Tế ở Trung Quốc, hệ truyền thừa Vạn Phong Thời Uy (đời 21) và Ðạo Mân (đời 31), cùng các đệ tử lập các ngôi chùa Phật giáo Lâm Tế tại Qui Nhơn, Phú Xuân. Tiếp nối đệ tử, đồ tôn như Minh Hải Pháp Bảo lập chi phái Chúc Thánh Lâm Tế tại Quảng Nam, còn Thiệt Diệu Liễu Quán thì khai sinh chi phái Liễu Quán Lâm Tế ở Huế. Ngoài ra còn một hệ của Trí Thắng Bích Dung trực thuộc Lâm Tế đời thứ 25. Tóm lại theo lịch sử Phật giáo Việt Nam thì Khai Tổ Thiền phái Lâm Tế ở Ðàng Trong là Thiền sư Nguyên Thiều Siêu Bạch. Tại Bình Thuận, chùa Linh Sơn Trường Thọ (Chùa Núi Cú), theo chi phái Lâm Tế Trí Thắng Bích Dung, do Kim Tiên Tịch Ni khai đạo.

Theo Phật sử, thì sự hình thành Phật giáo tại Bình Thuận có lẽ phát xuất từ lúc dân Ðại Việt vào lập nghiệp tại Thuận Trấn từ năm 1693, do dân chúng và các ni sư trong đoàn người di cư. Lúc đầu chỉ mới có Ðình - Chuà, do dân tạo lập vừa thờ Phật, thờ Thành Hoàng cũng là nơi sinh hoạt chung của người dân lưu xứ. Riêng các ni sư, nếu có điều kiện thì tự lập các thảo am rồi theo thời gian, đình, chùa, thiền viện phát triển và được xây dựng quy mô đẹp đẽ như ngày nay. Tóm lại qua ba trăm năm xây dựng, Phật giáo Bình Thuận chịu ảnh hưởng từ Phật giáo Phú Yên (các tổ Bảo Tạng, Hữu Ðức, Thái Bình, Hưng Từ, Viên Quang, Tịnh Hạnh..) và Biên Hòa - Gia Ðịnh (Tế Tín, Chánh Trực, Liễu Thành, Liễu Ðoan..).

Năm 1800 Hòa Thượng Ðạo Chơn Quang Huy (Phú Yên) lập chùa Liên Trì (Phan Thiết) và Ðạo Chơn Thường Trung chùa Phật Quang (Chùa Cát), hai vị trên đều thuộc phái Lâm Tế Liễu Quán. Thật ra các chùa Cát, Liên Trì, Long Quan.. được lập từ năm 1736 nhưng chưa có trụ trì. Riêng bản gỗ khắc bộ kinh Ðại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, hiện còn nguyên vẹn tại chùa Phật Quang, cũng được khởi công khắc từ năm 1736 và mãi 28 năm sau mới hoàn thành. Tổ sư chùa Bửu Lâm (Phước Thiện Xuân) là Tánh Giác Trí Chất. Riêng cao tăng danh tiếng của Bình Thuận là Hòa Thượng Thông Ân Hữu Ðức xuất gia với Tổ Trí Chất và Phổ Quang. Hầu hết các tăng, ni tại Bình Thuận, phần lớn là truyền thừa của Tổ Hữu Ðức, tổ sư chùa Kim Quang (Bầu Trâm), Kỳ Viên và Linh Sơn Trường Thọ (Chùa Cú), ngài viên tịch ngày 5-10-1887 tại chùa Cú. Khoảng 1838-1839, Thiền sư Hải Bình Bảo Tạng khai sinh chùa Linh Sơn Vĩnh Hảo và chùa Cổ Thạch (Tuy Phong). Năm 1850 Ðại Sư Như Thành Nhất Bổn, đúc chuông và trùng tu chùa Long Quang (Phan Rí). Năm 1930, Hòa Thượng Phật Huệ khai sinh chuà Pháp Bảo. Năm 1936 Ni Trưởng Diệu Tịnh, đệ tử chùa Chí Thiện Châu Ðốc, đến trụ trì Bình Quang Ni Tự ở Bình Hưng, chùa này được vua Bảo Ðại sắc tứ và là tổ đình của chư ni Bình Thuận.

Năm 1938 An Nam Phật Học Hội Bình Thuận thành lập do Ðoàn Tá, Ấm Cương, Thừa Tiêu, Thừa Châm.. và hội trưởng đầu tiên là Ðoàn Tá. Năm 1940 chùa Phật Học được xây dựng và là trụ sở tỉnh hội Bình Thuận, nhiều chi nhánh được phát triển tại Mũi Né, Phan Rí.. Năm 1948 giáo hội tăng già Bình Thuận thành lập, trụ sở tại chuà Linh Thắng, Lạc Ðạo. Năm 1950 gia đình phật tử Bình Thuận thành lập. Năm 1958 lập Tòng Lâm Vạn Thiện, đồng thời Hòa Thượng Thích Giác An lập hệ phái khất sĩ Bình Thuận, trụ sở là Tịnh xá Ngọc Cát trên động Làng Thiềng. Tại Núi Cú, trụ trì Hòa Thượng Thục Châu Vĩnh Thọ đúc ba tượng Phật Di Ðà cao 7m, Quan thế Âm cao 6m và Phật Thích Ca nhập niết bàn dài 49m. Ðây là tượng Phật lớn nhất Việt Nam. Năm 1962 hoà thượng Thích Hưng Từ lập chùa Linh Sơn Tánh Linh.

            Việt Nam là một quốc gia Phật giáo với 90 % tín đồ, nên nơi nào cũng đều có đình chùa thờ cúng Phật nhưng nổi tiếng nhất vẫn là những ngôi cổ tự ở miền Bắc, vốn là cái nôi văn hóa của dân tộc Việt, đã có từ thời lập quốc.

+ CHIM GÕ MÕ - CÁ NGHE KINH :

            Hội chùa Hương là một trong những lễ hội quan trọng của Phật giáo đất Bắc vì theo truyền thuyết, đây là chốn tu hành và đắc đạo của Ðức Phật Bà Quan Âm. Chùa Hương cũng là một thắng cảnh với sông suối núi đèo, nên đã thu hút nhiều tao nhân mặc khách, lưu lại cho đời nhiều thi phẩm giá trị của Chu Mạnh Trinh, Tản Ðà, Nguyễn Nhược Pháp, Vũ Phạm Hàm.. trong đó được ưa thích nhất, vẫn là bài ‘ Phong cảnh Hương Sơn ‘ của Chu Mạnh Trinh :

‘ Thỏ thẻ rừng mai, chim cúng trái
Lửng lơ khe Yến, cá nghe kinh
thoảng bên tai một tiếng chày kình
khách tang hải giật mình trong giấc mộng.. ’ ’

            Chim gõ mõ, cá nghe kinh.. không phải là giai thoại nhà Phật, mà là chuyện có thật ở đây. Chim gõ mõ còn có tên Ðạc Ðiểu, khi cụp cánh lại, có hình dáng như ếch, da màu xanh, thường bay vào tận các hang sâu ăn kiến và sâu bọ. Vào những tháng đầu năm, chim thường kêu những tiếng cốc, cốc, cốc.. giống như tiếng gõ mõ tụng kinh. Ðặc biệt chim hay kêu từ giờ Dần trở đi, tức là khoảng thời gian gần sáng. Còn cá nghe kinh, để chỉ loại cá chép , trên đầu màu đỏ nên cũng được gọi là cá Anh Vũ, có rất nhiều ở các suối quanh khu vực Hương Sơn. Thường Phật tử hay du khách vảng cảnh chùa Hương, hay quăng bỏng rang xuống nước cho cá nổi lên mặt nước ăn, trong lúc khắp nơi vang vang tiếng tụng kinh gõ mõ.

+ CHÙA DIÊN HỰU NAY CÒN HAY MẤT ?

            Hà Nội (Thăng Long), là kinh đô của nhiều triều đại trong Việt sử, nên đã có rất nhiều biểu tượng thân thương trong tâm khảm mọi người . Ðó là Hồ Gươm với Tháp Bút, Cột Cờ Thủ Ngữ, gác Khuê Văn soi mình xuống giếng Thiên Quang trong Quốc Tử Giám.. Nhưng nổi tiếng nhất vẫn là Chùa Một Cột, đã có trên ngàn tuổi.

            Chùa còn có tên là Diên Hựu, theo các nhà biên khảo,thì hiện nay đã trở nên xa lạ,qua những chứng tích còn lại. Căn cứ vào những ghi chép từ tài liệu cổ, cho biết ngôi chùa xưa, được kiến trúc toàn thể rất hoàn chỉnh, bằng sự kết hợp giữa thiên nhiên và tôn giáo, xứng đáng là danh lam thắng cảnh bậc nhất tại Thăng Long Thành, vào đời Nhà Lý. Do tính chất đặc thù trên, nên tự ngàn xưa, Chùa Một Cột không những đã khắc sâu trong tâm khảm của người Hà Nội, mà còn là niềm tự hào chung của nền văn hóa VN.

            Tương truyền Lý Thái Tông (1028-1054) , một đêm nằm mộng thấy mình được Phật Bà Quan Âm, từ trên tòa sen bước xuống, cầm tay dắt nhà vua cùng lên ngự trên tòa sen. Tỉnh mộng, nhà vua cho tuyển tất cả thợ giỏi tại kinh đô Thăng Long lúc đó, ứng theo điềm mộng,xây dựng một ngôi chùa có hình dạng giống một đóa sen, được dặt trên một cột đá đứng giữa hồ Linh Chiểu trồng toàn sen.

            Chùa thờ Ðức Phật Bà Quan Âm, một vị Bồ Tát chuyên cứu nhân độ thế, rất phù hợp với mục đích của triều đình : Cầu mong cho quốc thái dân an, nhà Lý đời đời bền vững. Bởi vậy ngôi chùa mới được đặt tên là Diên Hựu. Lần đầu, chùa được dựng lên cạnh Hồ Tây (Dâm Ðàm, tên gọi thời Lý) , và liên tục được tu bổ mở rộng. Năm 1101, vua Lý Nhân Tôn cho đúc một quả chuông , đồng thời với việc xây một giá, cao tám trượng bằng đá cẩm thạch xanh, để treo chuông. nhưng không dùng được vì chuông quá lớn.

            Năm 1102, vua lại cho xây thêm một hành lang bao quanh hồ Linh Chiểu, đồng thời đào thêm Hồ Khang Bích và bắt nhiều cầu, thông từ khu vườn của chùa ra hai mặt hồ trên, làm cho diện tích tăng thêm rất nhiều. Phía sân trước của cầu dẫn vào chánh điện, vua cho dựng hai ngọn tháp lớn, với mái lợp bằng loại ngói sứ trắng, từ xa nhìn chẳng khác nào hai đoá hoa đại trắng, luôn tỏa rực ánh sáng mặt trời.

            Ðây cũng là nơi mà hầu hết các vị vua nhà Lý, sau buổi chầu thường ngự tại đây, để có dịp tiếp xúc với thần dân. Ðặc biệt hằng năm, vào ngày Mùng tám tháng tư (Niên lịch cổ chỉ ngày Ðản sinh Phật Tổ), âm lịch, Ðại lễ Phật Ðản được tổ chức tại chùa Một Cột., do chính các vị vua nhà Lý tới chùa để làm lễ Tắm Phật. Trong dịp này, chẳng những các vị tăng ni và dân chúng Thăng Long kéo về tham dự, mà cả các trấn khác cũng lũ lượt tới chùa để cúng Phật. Sau đó, nhà vua đứng trên cao, tay cầm một lồng chim, rút cửa phóng sinh. Dân chúng tham dự đại lễ, ai nấy đều vổ tay reo hò hoan hô vang dậy và cũng bắt chước vua, thả chim làm phước. Tóm lại, Phật giáo VN, từ ngàn năm trước, qua ngày hội thả chim tại chùa Một Cột, suốt thời Lý, đã biểu lộ đức hiếu sinh của dân tộc Việt, lưu truyền cho con cháu tới ngày nay, vẫn không hề thay đổi.

            Ngày nay ngôi chùa cổ xưa và danh tiềng nhất của Phật giáo VN, chỉ còn là huyên thoại, vì đã bị thực dân Pháp lẫn cộng sản Bắc Việt tàn phá thảm thê, lấn chiếm đất đai, hủy diệt những công trình tạo dựng có từ ngàn năm trước, để xây Dinh Toàn Quyền Ðông Dương và Lăng Hồ tại Ba Ðình. Ðiều này cho thấy VC không khac gì bọn đầu sỏ Taliban, khi chiếm được Afghanistan, năm 1998 đã ra lệnh tàn phá hủy diệt tất cả những pho tượng Phật bằng đá, nằm trong thung lủng Bamiyan. Từ những trang Phật sử, ta thấy việc dời đổi chùa đinh, là chuyện bình thường trên đất Bắc thời trước, vì mục đích cũng chỉ muốn làm cho ngôi chùa thêm uy nghi tráng lệ hơn. Ðó là việc nhà Hậu Lê, đã dời chùa Trấn Quốc, được nhà Lý xây dựng tại Làng Yên Hoa, ngoài bải sông Hồng, vào địa điểm ngày nay, vì tránh lụt lội. Còn chùa Quan Thánh thời nhà Lý, được dựng trong Hoàng Thành, tới nhà Hậu Lê cũng được dời ra phía nam Hồ Tây, vì lý do mở rộng thành phố.

            Thời VNCH, đồng bào miền Bắc di cư, đã mô phỏng ngôi cổ tự danh tiếng nhất nước, để dựng lên ngôi chùa Một Cột ở miền Nam, qua danh xưng “ Nam Thiên Nhất Tru ‘.tại Thủ Ðức, do kiến trúc sư Ngô Gia Ðức thiết kế . Chùa hiện là một trong những ngôi Phật tự nổi tiếng nhất trong nước, thu hút rất nhiều Phật tử du khách mọi nơi, tới vãng cảnh chùa hay cúng Phật, nhất là vào những ngày Tết Nguyên Ðán hay Lễ Vía .

+ ÐƯỜNG LÊN YÊN TỬ MIỀN BẮC :

             Cách Hà Nội 100 cây số về hướng đông bắc, hơn 700 năm trước, vua Trần Nhân Tôn cũng là Thiền sư Ðiếu Ngự Giác Hòang, sau khi rời ngôi vua nhà Trần, đã tới núi Yên Tử tu trì và sáng lập THIỀN PHÁI TRÚC LÂM : Trung tâm của Phật Giáo VN.

            Cũng từ đó cho tới nay, mặc cho bao đời biển dâu trầm thống, rừng núi Yên Tử và những ngôi cổ tự, vẫn im lìm ẩn hiện trong mây khói với các huyền thoại và di tích của Thiền Tông VN. Theo truyền thuyết, mỗi khi nghe tiếng chuông từ chùa Ðồng trên đỉnh cao nhất của Yên Tử (1.100m), ngân nga vang vọng, thì tất cả các loài chim Nhạn, chim Hạc, đều rời tổ ấm nơi vách núi, bay bổng lên không trung che kín trời, sau đó tan biến trong cảnh núi rừng tĩnh lặng.

            Tên núi Yên Tử phát xuất bởi sự tích của một Thiền sư tên Yên Kỳ Sinh, thuộc dòng Thiền của Lục Tổ Huệ Năng, ngay đầu Tây lịch,từ bên Tàu tới đây tu hành và đắc đạo hóa Phật, biến thành đá nên được gọi là Yên Tử. Ngoài ra, từ Dốc Ðỏ dưới chân núi, nhìn lên đỉnh thấy hình dáng núi không khac gì một con voi đang phủ phục, nên còn có tên là Tựợng Sơn. Rặng núi này muôn đời như bức bình phong, ngăn luồn gió Nam Nồm từ Ðông Hải thổi vào núi, làm cho hơi gió đọng lại biến thành mây trắng lững lơ trên đỉnh núi quanh năm, nên Yên Tử còn được gọi là Phù vân sơn hay núi Bạch Vân.

            Sau nhiều thế kỷ Phật giáo du nhập và truyền bá vào VN, môn phái của Thiền Sư Yên Kỳ Sinh cũng có rất nhiều đệ tử, rất được trọng vọng thời nhà Trần. Một trong những cao tăng trên, là Quốc Sư Phù Vân, cũng chính là sư phụ của vua Trần Nhân Tông. Ngài là chiếc cầu nổi, dẫn dắt nhà vua, rời bỏ vinh hoa phú quý nơi cung vàng điện ngọc, để lên chốn rừng núi Yên Tử muôn trùng, tu trì và sáng lập Trúc Lâm Thiền Phái, chủ trương đạo đời hợp nhất, có ảnh hưởng rất lớn tại VN.

            Do đó, hệ thống chùa chiền am thất tại Yên Tử, đều được khởi công xây cất từ khi vua Trần Nhân Tông tới đây tu trì. Về sau lại được trùng tu nhiều lần. mà quan trọng nhất vào thời Vĩnh Thịnh (1345-1358) và Vĩnh Khánh (1729-1732). Tuy nhiên những chùa miếu còn lại tới nay trên Yên Tử , đều được xây dựng vào thời Nhà Nguyễn, dựa vào dấu ấn kiến trúc và điêu khắc từ các thời Trần-Hậu Lê.

            Ngoài những kiến trúc xây dựng, vua Nhân Tông còn cho trồng nhiều cây Tùng , vừa lấy bóng mát dọc theo những con đường nối liền hệ thống chùa am từ chân lên đỉnh núi. Rễ Tùng còn được xử dụng như những bậc thang, giúp khách hành hương lên núi, khỏi bị rơi xuống vực thẳm. Có ba loại Tùng được trồng ở đây là Thủy Tùng (gổ màu trắng), Thanh Tùng (gổ màu xanh) nhưng qúy nhất vẫn là Xích Tùng (Gổ đỏ) . Bởi vậy đường lên Yên Tử xưa nay, vẫn được gọi là Ðường Tùng với sự hiện hữu của 274 cây còn xanh tốt, dù tuổi thọ của chúng đã 700 năm.

            Hệ thống chùa am ở Yên Tử, đều tập trung ờ sướn núi phía nam, mà ngôi chùa đầu tiên là Ðền Trình, coi như là cửa ngõ lên núi, còn Chùa Ðồng là đỉnh cao nhất, từ đó có thể nhìn thấy Bạch Ðằng Giang, biển Ðông và biên giới Hoa Việt.. Chùa Ðồng nguyên thủy được các vua Nhà Trần xây dựng toàn bằng đồng, được coi như một biểu tượng của sự đồng nhất , giữa đạo-đời, con người và vũ trụ. Nhưng rồi chiến tranh triền miền, kéo dài từ thời này sang đời khác, nên chẳng những ngôi chùa nguyên thủy bằng đồng, mà cả chùa xây dựng sau này bằng đá và xi măng, cũng bị tàn phá, dột nát hư hại. Năm 1993, một ngôi chùa Ðồng mới đã được xây cất theo hình chữ Ðinh với hình dáng một Bông Hoa Sen nở . Trong chùa, có tượng Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, ngự trên tòa sen. Bên dưới là ba pho tượng của Tam Tổ Trúc Lâm : Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang, cùng ngự trên đài sen. Phía trước có bốn chuông đồng, một quả lớn và ba quả nhỏ, lúc nào cũng như ngân nga trong cơn gió thoảng, lẫn trong mùi thơm ngát của hương khói và trăm hoa chen nở .

             Hiện còn các chùa Vân Tiêu, Bảo Xái, Thanh Long, An Tự, Hoa Yên, Giải Oan, Cầm Thục.. cùng với nhiều di vật đặc sắc đầy huyền thoại. Theo các nhà biên khảo xưa nay, thì nét đẹp tuyẽt mỹ của Yên Tử, chẳng những là chùa, am, tùng bách mà còn bao gồm cả khu rừng trúc xanh ngắt, những cụm hoa Trà My, Dành Dành có màu trắng muốt, đứng chen lẫn khoe sắc hương với từng khu vườn Cúc, Vạn Thọ màu vàng, mái chùa đỏ ối.. thấp thoáng ẩn hiện như sương khói muôn trùng.

            Hoa Yên là ngôi chùa lớn và đẹp nhất ở Yên Tử, nên còn được gọi là chùa Cả, chùa Chính hay chùa Yên Tử, nằm trên cao độ 800m, trên một dãi đất hình đài sen, bao quanh sườn núi,từ chính điện có thể nhìn ra Suối Giải Oan ở phía dưới, là lượt chảy giữa rừng núi xanh ngắt, đâu có khác nào một giải lụa trắng mềm mại. Quanh chùa có năm cây đại cổ thụ to lớn hơn 700 tuổi. Bên trong có nhiều tượng Phật toàn bằng đồng nhưng bề thế nguy nga nhất vẫn là tượng vua Trần Nhân Tông , đặt tại Bái đường. Phía dưới chùa là Kim Tháp, chốn an nghĩ ngàn đời của các vị Thiền Tăng Tam Tổ và 97 Tháp khác vây quanh Tháp Tổ, phụng thờ các vị Sư đã tu hành tại Yên Tử.

            Ngày nay đường lên rừng núi cheo leo Yên Tử, phần nào được rút ngắn và bớt nguy hiểm, nhờ một hệ thống Cáp treo, đã được thiết kế từ mặt đất lên tới chùa Hoa Yên. Nhờ vậy khách hành huơng như có cái cãm giác đang bồng bềnh trong sương khói, trong lúc có thể thưởng thức được trọn vẹn bức tranh thủy mạc trọn vẹn của non nước VN,từ rừng núi Quảng Ninh, biển đảo Hạ Long, khiến cho ai nấy lòng trần biến mất theo luồng gió mát lạnh của vũ trụ miên man.

+ HỆ THỐNG CHÙA PHẬT TRÊN NÚI BÀ ÐEN :

            Theo các tài liệu còn lưu trử, thì hệ thống chùa miếu trên núi Bà Ðen (Tây Ninh) , được hình thành đầu tiên, qua tín ngưỡng dân gian . Giống như những di dân đầu tiên từ Thuận Quảng vào khẩn hoang lập nghiệp ở Thuận Trấn, sống bằng nghề biển, nên đã tin thờ Nam Hải Ðại Tướng Quân(Cá Ông), để cầu xin gia hộ che chở, trong lúc hành nghề đạm bạc trên sông biến sóng gió . Tại Tây Ninh cũng vậy, những người tiều phu, khai rẩy, phá rừng, cũng cảm thấy mình thật bé nhỏ, trước thiên nhiên hùng vĩ và chúa sơn lâm, nên trong vô thức, đã bộc phát những nguyện cầu tới các đấng thần linh và theo thời gian trở thành một tón ngưởng, được mọi người đồng tình chấp nhận và tồn tại tới ngày nay.

            Khởi đầu vào thế kỷ XVII sau TL, người Việt đã bắt đầu tới Lục Chân Lạp (Nam Phần) để lập nghiệp và đã dựng trên núi, một ngôi chùa lá không tên, để làm nơi gởi gấm ký thác về thành tâm cầu nguyện các đấng thần linh hộ trì giúp đở.

            Năm 1745, có Thiền sư Thiệt Diệu (Liễu Quán) , thuộc đời thứ 35 của Thiền Phái Tế Thượng Chánh Tông, nhân đi ngang núi Bà Ðen, rung động trước sự tĩnh lặng và phong cảnh hửu tình trong vùng, nên Ngài đã quyết định ở lại tu trì. Cũng từ đó, chấm dứt thời kỳ tín ngưỡng dân gian tự phát và một hệ thống chùa Phật được xây dựng tại đây.

            Trải qua 252 năm thành lập, từ Tổ sư thứ 1 của Thiền Phái Tế Thượng, tới nay đã truyền được 11 đời. (35-46) , nối tiếp nhau khai hóa hành đạo tại núi Ðiện Bà (Tây Ninh) .

            Năm 1857 , Tỳ Kheo Thanh Thọ (Phước Chi ), xây dựng Ðại Hùng Bửu Ðiện và Giảng đường. Năm 1864, Thiền sư Huệ Mạnh, khai mỡ Linh Sơn Long Châu tự (Chùa Hang), cách chùa củ chừng 300m. Năm 1871, xây dựng chùa Phước Lâm, trên bờ con sông nhỏ, chảy ngang Ấp Vĩnh Xuân (Chợ Tây Ninh), được xem như tiền trạm của thiện nam tín nử, trên đường lên núi hành hương cúng Phật, nhất là ngày vía Bà mùng năm tháng năm hay Tết Nguyên Ðán.

            Từ 1880-1910, Thiền sư Chơn Thoại (Trừng Tùng), xây thêm chùa Trung, tyức Linh Sơn Phước Trung, để cho khách leo núi có chổ nghĩ ngơi. Từ năm 1910 về sau, núi Bà Ðen rộng mở, thu hút khách thập phương tới cúng Phật đông đảo. Ðây cũng thời gian Hòa Thượng Tâm Hòa, kiến tạo và mở rộng chùa Trung.Từ 1920-1924, toàn thể khu vực quanh chùa được mở rộng, qua hệ thống 21 tu viện chùa am lớn nhỏ . Ðồng thời một con đường, dài 1300m, rộng 6m, cũng được hoàn thành, từ chân núi lên chùa, tới nay tất cả vẫn còn lưu dấu.

            Năm 1945 , quân Nhật chiếm núi Bà Ðen, thiêu hủy toàn bộ hệ thống tu viện trên núi. Ngày 2-11-1945 thực dân Pháp thay thế quân Nhật chiếm đóng, ngoài việc đốt phá chùa chiền, còn bắt giết sát hại nhiều tăng ni.

            Năm 1954 chia hai đất nước và Tây Ninh thuộc lãnh thổ VNCH, nên Hòa Thượng Thích Giác Ðiền, trở lại núi, tái tạo lại hệ thống chùa Phật năm xưa, thêm to lớn và đẹp đẽ. Nhưng Cọng sản Hà Nội lại phát động cuộc xâm lăng Miền Nam qua cái gọi là MTGPMN công khai lộ diện từ tháng 12/1960. Tây Ninh vì gần biên giới Kampuchia, nên được Bắc Việt, chọn đặt căn cứ của Trung ương Cục Miền Nam., gọi tắt là cục R, cách tỉnh lỵ 64 km. Từ năm 1960-1975, chiến tranh càng lúc thêm ác liệt, các tăng ni trên núi Bà Ðen, phải theo Hòa thượng Thích Huệ Phương về tu tại chùa Phước Lâm trong thị xã. Trên chùa chỉ còn hai Ni cô Thích Nữ Diệu Châu và Diệu Nghĩa ở ;ại lo nhang khói. Núi Bà Ðen vắng ngắt mọi người.

            Sau năm 1975, đất nước ngưng tiếng súng, cũng nhờ VC không còn phá hoại và trên hết là tiềnvàng cúng dường của Việt kiều muôn phương, tuôn về giúp xây dựng lại chùa Phật trên núi Bà Ðen, hiện do Ni sư Thích Nữ Diệu Nghĩa làm Viện chủ. Từ 1992-1997, trùng tu lại các ngôi chùa Linh Sơn Long Châu tự (Chùa Hang), Linh Sơn Phuớc Trung tự (Chùa Trung) và nhiều chùa Phật khác trên núi. Ðiện Bà lại mở rộng như từ 300 năm trứơc với khách thập phương lên núi cúng Phật như không bao giờ dứt .

            Tết vừa qua, trong lúc cả nhân loại kể cả người Việt tị nạn VC trên mọi nẻo đường viễn xứ đều rộn rịp hoan hĩ đón mùng, thì ngay trên quê hương VN, giặc vẫn không ngừng đàn áp tôn giáo, quyết tâm bắt ép cả nước, phải tùng phục cái gọi là Phật giáo nhà nước, đem tượng Hồ Chí Minh, ngồi ngang với Ðức Phật Tổ và chư vị Bồ Tát. Bởi vậy cho nên Uỷ Ban Tự do tôn giáo quốc tế (USCIRF), đã yêu cầu bộ ngoại giao Hoa Kỳ phải đưa VC vào danh sách 10 nước, bị LHQ đánh giá là gây tổn hại cho tôn giáo, mà Hà Nội lúc nào cũng to miệng nói rằng ở VN hiện nay rất có tụ do tôn giáo.

            Như nhận xét của sử gia Hoàng Xuân Hản ‘ Ðời Lý là đời thuần từ nhất trong lịch sử nước ta, đó chính là nhờ ảnh hưởng của Phật giáo’. VN từ 1975 đến nay, qua chủ thuyết độc tài của Mác-Lê-Mao-Hồ, đã làm cho xã hội và con người VN biến đổi, đánh mất tất cả những cao quý của Dân tộc Việt có tự ngàn xưa, đưa đến hậu quả biến thành nô lệ của Tàu, vì không còn chổ dựa của tâm linh và lý tưởng ái quốc. Nhưng linh hồn đất Việt vẩn còn đó, nhất là Phật giáo VN, suốt bao thế kỷ , luôn đồng hành chia xẽ nổi bất hạnh với dất nước, luôn đặt sự tồn vong của đạo với sự tồn vong của dân tộc Việt. Bởi vậy :

“ Dân tộc ta không thể nào thua chủ thuyết Cộng Sản
Ðạo Phật muôn đời sáng lạn, sẽ làm sụp đổ chủ nghĩa vô thần Lê Mác
VN vẫn còn núi còn sông và ngôi chùa
Muôn đời không dời đổi “
 

Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy
THáng 11-2010
MƯỜNG GIANG