Thursday, December 2, 2010

THEO CHÂN VIỆT SỬ, TÌM VỀ PHẬT GIÁO VIỆT NAM





           Các nhà nghiên cứu xưa nay, qua hai từ ngữ BỤT và PHẬT, đã kết luận rằng Phật giáo đã truyền vào VN từ đầu tây lịch, bằng hai con đường qua Ấn Ðộ và Trung Hoa. Do giáo lý nhà Phật về luân hồi, nhân quả, nghiệp chướng.. rất gần gũi với tâm tình của tầng lớp người bình dân nông thôn, miền biển và lao động.. nên đã nhanh chóng đi vào đời sống của dân tộc. Ngoài ra những kinh điển của Phật giáo bằng chữ Hán, từ Trung Hoa truyền sang, lại đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của tàng lớp quan lại trí thức trong nước thời đó, vốn được đào tạo bằng Nho học. Chính sự hòa hợp này, đã tạo thành Phật giáo VN với những sắc thái đặc thù phổ quát, thường trưc và đồng hành với lịch sử Việt, bằng tất cả tinh hoa, hùng tâm, thần trí và đại lực.

            Ðặc tính huyền diệu cao thâm của Phật giáo VN là cứu khổ cứu nạn cuộc đời, cho nên người Phật tử VN lúc nào cũng vững lòng bền chí trong mọi hoàn cảnh, vì bên cạnh luôn luôn có Ðức Thế Tôn, đầu trần chân đất, lặn lội khắp nhân gian, để mà phổ độ chúng sinh. Ðây chính là lý tưởng của Phật Như Lai ngay khi còn là Tất Ðạt Ða, luôn nhập thế ở giữa cuộc đời, chứ không bao giờ xuất thế, cho nên nói ‘ Phật tại tâm ‘ là thế đó.. Tóm lại tôn chỉ của Phật giáo VN là nhập thế và sinh phong vào đời, để phụng sự dân tộc, phát triển đất nước và khai phóng mọi người, đến cõi chân thiện mỹ, mà nhân gian quen gọi là chốn cực lạc.

            Bởi vậy cho nên khắp hang cùng ngõ hẹp, qua mọi nẽo đường đất nước, không có nơi nào không có bóng dáng ngôi chùa, cho dù ở thành thị náo nhiệt hay chốn thôn ổ đìu hiu, ngôi chùa vẫn trầm mặc hương khói, hòa quyện cùng tiếng chuông mõ niệm kinh, để rồi theo gió, trãi ra mênh mông như muốn xóa nhòa tất cả những phiền muộn của cuộc đời, mang lại niềm thanh thản, hạnh phúc, trong lòng mọi người.

            Sử đã viết, đời Lý lấy đạo Phật làm quốc giáo, nên đã đạt được nhiều thành tựu hiển hách, xây dựng Ðại Việt thành một quốc gia văn hién bề thế, tạo điều kiện để cho nhà Trần, qua các vị vua anh minh Thái Tôn, Thánh Tôn, Nhân Tôn.. có dủ sức mạnh, đánh đuổi được Ðế quốc Nguyên-Mông, ba lần xăm lăng nước ta. Ngoài ra đời Lý cũng là triều dại đầu tiên trong giòng Sử Việt, đã phục hưng lại truyền thống và tập tính của dân tộc, đã bị người Tàu nhồi sọ, qua mười thế kỷ đô hộ. Qua ý thức phát xuất bằng từ tâm của người Phật tử, các vị vua nhà Lý đã dấn thân nhập thế, cấm chỉ việc tra tấn ngược đãi tù nhân, cung cấp đầy đủ cơm áo cho , với tấm lòng ‘ thương người như thể thương thân.

            Trong lãnh cực văn hóa, đời Lý qua các kỳ thi tuyển chọn nhần tài phục vụ cho dất nước, nội dung thi cữ vẫn là đề tài từ các học thuyết của Tam giáo (Phật, Nho, Lão) . Với các vị Thiền sư thời Lý-Trần, đã trị nước bằng những ứng dụng tâm thức tu hành theo giáo lý của Ðức Phật. Ðó chính là những khải thị về không gian mà Ðức Phật đã nhập pháp giới trong kinh Hoa Nghiêm ‘ Mười phương thế giới đồng nhất thể ‘ hay mở bày ý niệm về thời gian, trong kinh Kim Cang ‘ Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc ‘.

            Mới đây, người ta đã tìm thấy một pho Kinh Phật bằng đồng, được xem là cổ nhất, tại chân tháp Viên Quang, chùa Phât Tích, thuộc Huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh (Bắc phần). Pho kinh là hai lá đồng mỏng 1,5mm, khổ 11cm x 17cm, trên khắc chữ Hán, được khâu dính lại bằng một sợi dây đồng.. Ðây là bộ Ba La Mật Tâm Kinh, một bộ kinh rất quan trọng của Phật giáo. Ngoài ra cuối bản đồng, còn ghi rõ là cùng khắc chung, còn có nhiều bộ kinh khác như Pháp Hoa, Lương Hoàng, Ðịa Tạng, Kim Cương Dược Sư, Di Ðà, Quan Âm.. tất cả các bộ kinh kể trên không tìm thấy.

            Theo các nhà sử học và biên khảo trong nước, thì Bộ Kinh Phật bằng đồng trên, là một quốc bảo, có từ thời nhà Lý khi thực hiên khắc kinh trên đồng, với tâm nguyện mong cho quốc đạo trường tồn vĩnh cửu. Theo sử liệu, Phật tích , Chùa Dậu (Kinh đô Phật giáo Lủy Lâu, xây dựng từ thế lỷ thứ II sau TL ) và Chùa Bút Tháp, được xem là Trung tâm Phật giáo đời Lý.

            Nói chung các đời Ngô, Ðinh, Lý, Trần.. đều mộ đạo Phật nên đã xây dựng rất nhiều chùa chiền khắp nước. Nhiều vị cao tăng như Khuông Việt, Vạn Hạnh, Từ Ðạo Hạnh, Không Lộ, Mãn Giác.. được triều đình phong chức quốc sư, nên đã góp phần rất lớn với quốc gia, trong việc đánh bại quân xâm lăng Tàu và Mông Cổ, khi chúng tấn công nước ta.

            Sau khi Lê Lợi bình định được giặc Minh, thành lập nhà Hậu Lê, chọn Nho học làm quốc giáo, coi thường đạo Phật nhưng ảnh hưởng của tôn giáo này vẫn không hề sút giảm chút nào, trái lại tín đồ Phật giáo càng lúc càng đông , vì từ xa xưa người dân trong nước đã có quan niệm, nơi nào có chùa là có Phật. Cho nên chỉ cần đi lễ chùa, học giáo lý và tu niệm theo nhà Phật, đã là Phật tử của Phật môn.

            Thời Pháp thuộc, thực dân Pháp áp chế nhà Nguyễn, mươn lệnh triều đình Huế để ban hành sắc lệnh, qui định Phật giáo là một tôn giáo phụ. Tuy nhiên điều này, chẳng những không làm sút giảm uy thế ngàn đời của đạo, mà còn tạo cơ hội để Phật giáo bành trướng mạnh mẽ thêm khắp mọi nẻo đường đất Việt. Ðặc điểm của Phật giáo VN, là từ lúc du nhập vào VN cho tới đầu thế kỷ thứ XIX, đã không có một hệ thống lãnh đạo thống nhất, dù lúc đó Phật giáo vẫn là một tôn giáo lớn và có nhiều tín đồ nhất tại VN.

            Năm 1931 một đại hội Phật giáo đầu tiên , do Hội Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học, được nhóm họp tại Sài Gòn. Kế tiếp là các đại hội khác cũng được tổ chức tại Trung Việt năm 1932 và Bắc Việt năm 1934. Cả ba đại hội đều chung một mục đích : Chỉnh đốn Thiền Môn, Vãn hồi quy giới, giáo dục tăng ni và phổ thông đạo pháp bằng tiếng Việt.

            - Ngày 6/5/1951, nhóm họp Phật giáo toàn quốc tại Huế.
            - Năm 1955, Giáo Hội Phật giáo Thống nhất VN được thành lập và chính thức hiện hửu từ ngày 4-1-1964.

            Hiện nay tại VN, Phật giáo có nhiều hệ phái đang hoạt động :
            - Giáo hội Phật giáo nguyên thủy (Theravada) , thuộc Phật giáo Tiểu Thừa.
            - Giáo hội Phật giáo cổ truyền
            - Phật giáo Hoa Tông (của Người Việt gốc Hoa).
            - Thiên Thai Giáo Quán Tông.
            - Tịnh Ðộ Tông
            - Phật Giáo Hòa Hảo..

            Từ sau ngày 1-5-1975,Cộng Sản Hà Nội dùng đạn súng hợp nhất Phật giáo cả nước thành Giáo Hội Quốc Doanh, đặt Cáo Hồ ngang hàng với Chư Vị Bồ Tát, do cán bộ tôn giáo của Ðảng lãnh đạo. Năm 1981, Giáo Hội PG.VN Thống nhất, bị VC ra lệnh sáp nhập vào Phật giáo nhà nước. Tuy nhiên đó chỉ là lệnh và tuyên truyền, vì từ năm đó cho tới ngày nay, Giáo Hội Phật Giáo VNTN (GHPGVNTN) , chưa hề tham gia vào bất cứ một cơ cấu tôn giáo nào của đảng CSVN, nên đã bị VC đàn áp dã man và đặt ra ngoài vòng pháp luật. Mới đây, trong kỳ Ðại Hội Ðảng lần X, lần nửa VC lại to tiếng phủ nhận sự hiện hưu của Giáo Hội PG.VNTN trong nước. Tuy nhiên đó là lời đảng , còn dân chúng VN bao đời đã trải qua không biết bao nhiêu lần pháp nạn, cho nên đâu có ai thèm để ý làm gì những nghị quyết này nọ, trong lúc cuộc sống cơm áo thêm phần khó khăn, trước thảm trạng tham nhũng từ trên xuống dưới của VC .

Tại Bình Thuận, theo tài liệu của Tâm Quang viết trong ‘Giai Phẩm Bình Thuận Xuân Canh Thìn’ thì khoảng năm Ðinh Tỵ (1677) ở Ðàng Trong, Thiền sư Nguyễn Triều Siêu Bạch, thuộc thiền phái Lâm Tế ở Trung Quốc, hệ truyền thừa Vạn Phong Thời Uy (đời 21) và Ðạo Mân (đời 31), cùng các đệ tử lập các ngôi chùa Phật giáo Lâm Tế tại Qui Nhơn, Phú Xuân. Tiếp nối đệ tử, đồ tôn như Minh Hải Pháp Bảo lập chi phái Chúc Thánh Lâm Tế tại Quảng Nam, còn Thiệt Diệu Liễu Quán thì khai sinh chi phái Liễu Quán Lâm Tế ở Huế. Ngoài ra còn một hệ của Trí Thắng Bích Dung trực thuộc Lâm Tế đời thứ 25. Tóm lại theo lịch sử Phật giáo Việt Nam thì Khai Tổ Thiền phái Lâm Tế ở Ðàng Trong là Thiền sư Nguyên Thiều Siêu Bạch. Tại Bình Thuận, chùa Linh Sơn Trường Thọ (Chùa Núi Cú), theo chi phái Lâm Tế Trí Thắng Bích Dung, do Kim Tiên Tịch Ni khai đạo.

Theo Phật sử, thì sự hình thành Phật giáo tại Bình Thuận có lẽ phát xuất từ lúc dân Ðại Việt vào lập nghiệp tại Thuận Trấn từ năm 1693, do dân chúng và các ni sư trong đoàn người di cư. Lúc đầu chỉ mới có Ðình - Chuà, do dân tạo lập vừa thờ Phật, thờ Thành Hoàng cũng là nơi sinh hoạt chung của người dân lưu xứ. Riêng các ni sư, nếu có điều kiện thì tự lập các thảo am rồi theo thời gian, đình, chùa, thiền viện phát triển và được xây dựng quy mô đẹp đẽ như ngày nay. Tóm lại qua ba trăm năm xây dựng, Phật giáo Bình Thuận chịu ảnh hưởng từ Phật giáo Phú Yên (các tổ Bảo Tạng, Hữu Ðức, Thái Bình, Hưng Từ, Viên Quang, Tịnh Hạnh..) và Biên Hòa - Gia Ðịnh (Tế Tín, Chánh Trực, Liễu Thành, Liễu Ðoan..).

Năm 1800 Hòa Thượng Ðạo Chơn Quang Huy (Phú Yên) lập chùa Liên Trì (Phan Thiết) và Ðạo Chơn Thường Trung chùa Phật Quang (Chùa Cát), hai vị trên đều thuộc phái Lâm Tế Liễu Quán. Thật ra các chùa Cát, Liên Trì, Long Quan.. được lập từ năm 1736 nhưng chưa có trụ trì. Riêng bản gỗ khắc bộ kinh Ðại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, hiện còn nguyên vẹn tại chùa Phật Quang, cũng được khởi công khắc từ năm 1736 và mãi 28 năm sau mới hoàn thành. Tổ sư chùa Bửu Lâm (Phước Thiện Xuân) là Tánh Giác Trí Chất. Riêng cao tăng danh tiếng của Bình Thuận là Hòa Thượng Thông Ân Hữu Ðức xuất gia với Tổ Trí Chất và Phổ Quang. Hầu hết các tăng, ni tại Bình Thuận, phần lớn là truyền thừa của Tổ Hữu Ðức, tổ sư chùa Kim Quang (Bầu Trâm), Kỳ Viên và Linh Sơn Trường Thọ (Chùa Cú), ngài viên tịch ngày 5-10-1887 tại chùa Cú. Khoảng 1838-1839, Thiền sư Hải Bình Bảo Tạng khai sinh chùa Linh Sơn Vĩnh Hảo và chùa Cổ Thạch (Tuy Phong). Năm 1850 Ðại Sư Như Thành Nhất Bổn, đúc chuông và trùng tu chùa Long Quang (Phan Rí). Năm 1930, Hòa Thượng Phật Huệ khai sinh chuà Pháp Bảo. Năm 1936 Ni Trưởng Diệu Tịnh, đệ tử chùa Chí Thiện Châu Ðốc, đến trụ trì Bình Quang Ni Tự ở Bình Hưng, chùa này được vua Bảo Ðại sắc tứ và là tổ đình của chư ni Bình Thuận.

Năm 1938 An Nam Phật Học Hội Bình Thuận thành lập do Ðoàn Tá, Ấm Cương, Thừa Tiêu, Thừa Châm.. và hội trưởng đầu tiên là Ðoàn Tá. Năm 1940 chùa Phật Học được xây dựng và là trụ sở tỉnh hội Bình Thuận, nhiều chi nhánh được phát triển tại Mũi Né, Phan Rí.. Năm 1948 giáo hội tăng già Bình Thuận thành lập, trụ sở tại chuà Linh Thắng, Lạc Ðạo. Năm 1950 gia đình phật tử Bình Thuận thành lập. Năm 1958 lập Tòng Lâm Vạn Thiện, đồng thời Hòa Thượng Thích Giác An lập hệ phái khất sĩ Bình Thuận, trụ sở là Tịnh xá Ngọc Cát trên động Làng Thiềng. Tại Núi Cú, trụ trì Hòa Thượng Thục Châu Vĩnh Thọ đúc ba tượng Phật Di Ðà cao 7m, Quan thế Âm cao 6m và Phật Thích Ca nhập niết bàn dài 49m. Ðây là tượng Phật lớn nhất Việt Nam. Năm 1962 hoà thượng Thích Hưng Từ lập chùa Linh Sơn Tánh Linh.

            Việt Nam là một quốc gia Phật giáo với 90 % tín đồ, nên nơi nào cũng đều có đình chùa thờ cúng Phật nhưng nổi tiếng nhất vẫn là những ngôi cổ tự ở miền Bắc, vốn là cái nôi văn hóa của dân tộc Việt, đã có từ thời lập quốc.

+ CHIM GÕ MÕ - CÁ NGHE KINH :

            Hội chùa Hương là một trong những lễ hội quan trọng của Phật giáo đất Bắc vì theo truyền thuyết, đây là chốn tu hành và đắc đạo của Ðức Phật Bà Quan Âm. Chùa Hương cũng là một thắng cảnh với sông suối núi đèo, nên đã thu hút nhiều tao nhân mặc khách, lưu lại cho đời nhiều thi phẩm giá trị của Chu Mạnh Trinh, Tản Ðà, Nguyễn Nhược Pháp, Vũ Phạm Hàm.. trong đó được ưa thích nhất, vẫn là bài ‘ Phong cảnh Hương Sơn ‘ của Chu Mạnh Trinh :

‘ Thỏ thẻ rừng mai, chim cúng trái
Lửng lơ khe Yến, cá nghe kinh
thoảng bên tai một tiếng chày kình
khách tang hải giật mình trong giấc mộng.. ’ ’

            Chim gõ mõ, cá nghe kinh.. không phải là giai thoại nhà Phật, mà là chuyện có thật ở đây. Chim gõ mõ còn có tên Ðạc Ðiểu, khi cụp cánh lại, có hình dáng như ếch, da màu xanh, thường bay vào tận các hang sâu ăn kiến và sâu bọ. Vào những tháng đầu năm, chim thường kêu những tiếng cốc, cốc, cốc.. giống như tiếng gõ mõ tụng kinh. Ðặc biệt chim hay kêu từ giờ Dần trở đi, tức là khoảng thời gian gần sáng. Còn cá nghe kinh, để chỉ loại cá chép , trên đầu màu đỏ nên cũng được gọi là cá Anh Vũ, có rất nhiều ở các suối quanh khu vực Hương Sơn. Thường Phật tử hay du khách vảng cảnh chùa Hương, hay quăng bỏng rang xuống nước cho cá nổi lên mặt nước ăn, trong lúc khắp nơi vang vang tiếng tụng kinh gõ mõ.

+ CHÙA DIÊN HỰU NAY CÒN HAY MẤT ?

            Hà Nội (Thăng Long), là kinh đô của nhiều triều đại trong Việt sử, nên đã có rất nhiều biểu tượng thân thương trong tâm khảm mọi người . Ðó là Hồ Gươm với Tháp Bút, Cột Cờ Thủ Ngữ, gác Khuê Văn soi mình xuống giếng Thiên Quang trong Quốc Tử Giám.. Nhưng nổi tiếng nhất vẫn là Chùa Một Cột, đã có trên ngàn tuổi.

            Chùa còn có tên là Diên Hựu, theo các nhà biên khảo,thì hiện nay đã trở nên xa lạ,qua những chứng tích còn lại. Căn cứ vào những ghi chép từ tài liệu cổ, cho biết ngôi chùa xưa, được kiến trúc toàn thể rất hoàn chỉnh, bằng sự kết hợp giữa thiên nhiên và tôn giáo, xứng đáng là danh lam thắng cảnh bậc nhất tại Thăng Long Thành, vào đời Nhà Lý. Do tính chất đặc thù trên, nên tự ngàn xưa, Chùa Một Cột không những đã khắc sâu trong tâm khảm của người Hà Nội, mà còn là niềm tự hào chung của nền văn hóa VN.

            Tương truyền Lý Thái Tông (1028-1054) , một đêm nằm mộng thấy mình được Phật Bà Quan Âm, từ trên tòa sen bước xuống, cầm tay dắt nhà vua cùng lên ngự trên tòa sen. Tỉnh mộng, nhà vua cho tuyển tất cả thợ giỏi tại kinh đô Thăng Long lúc đó, ứng theo điềm mộng,xây dựng một ngôi chùa có hình dạng giống một đóa sen, được dặt trên một cột đá đứng giữa hồ Linh Chiểu trồng toàn sen.

            Chùa thờ Ðức Phật Bà Quan Âm, một vị Bồ Tát chuyên cứu nhân độ thế, rất phù hợp với mục đích của triều đình : Cầu mong cho quốc thái dân an, nhà Lý đời đời bền vững. Bởi vậy ngôi chùa mới được đặt tên là Diên Hựu. Lần đầu, chùa được dựng lên cạnh Hồ Tây (Dâm Ðàm, tên gọi thời Lý) , và liên tục được tu bổ mở rộng. Năm 1101, vua Lý Nhân Tôn cho đúc một quả chuông , đồng thời với việc xây một giá, cao tám trượng bằng đá cẩm thạch xanh, để treo chuông. nhưng không dùng được vì chuông quá lớn.

            Năm 1102, vua lại cho xây thêm một hành lang bao quanh hồ Linh Chiểu, đồng thời đào thêm Hồ Khang Bích và bắt nhiều cầu, thông từ khu vườn của chùa ra hai mặt hồ trên, làm cho diện tích tăng thêm rất nhiều. Phía sân trước của cầu dẫn vào chánh điện, vua cho dựng hai ngọn tháp lớn, với mái lợp bằng loại ngói sứ trắng, từ xa nhìn chẳng khác nào hai đoá hoa đại trắng, luôn tỏa rực ánh sáng mặt trời.

            Ðây cũng là nơi mà hầu hết các vị vua nhà Lý, sau buổi chầu thường ngự tại đây, để có dịp tiếp xúc với thần dân. Ðặc biệt hằng năm, vào ngày Mùng tám tháng tư (Niên lịch cổ chỉ ngày Ðản sinh Phật Tổ), âm lịch, Ðại lễ Phật Ðản được tổ chức tại chùa Một Cột., do chính các vị vua nhà Lý tới chùa để làm lễ Tắm Phật. Trong dịp này, chẳng những các vị tăng ni và dân chúng Thăng Long kéo về tham dự, mà cả các trấn khác cũng lũ lượt tới chùa để cúng Phật. Sau đó, nhà vua đứng trên cao, tay cầm một lồng chim, rút cửa phóng sinh. Dân chúng tham dự đại lễ, ai nấy đều vổ tay reo hò hoan hô vang dậy và cũng bắt chước vua, thả chim làm phước. Tóm lại, Phật giáo VN, từ ngàn năm trước, qua ngày hội thả chim tại chùa Một Cột, suốt thời Lý, đã biểu lộ đức hiếu sinh của dân tộc Việt, lưu truyền cho con cháu tới ngày nay, vẫn không hề thay đổi.

            Ngày nay ngôi chùa cổ xưa và danh tiềng nhất của Phật giáo VN, chỉ còn là huyên thoại, vì đã bị thực dân Pháp lẫn cộng sản Bắc Việt tàn phá thảm thê, lấn chiếm đất đai, hủy diệt những công trình tạo dựng có từ ngàn năm trước, để xây Dinh Toàn Quyền Ðông Dương và Lăng Hồ tại Ba Ðình. Ðiều này cho thấy VC không khac gì bọn đầu sỏ Taliban, khi chiếm được Afghanistan, năm 1998 đã ra lệnh tàn phá hủy diệt tất cả những pho tượng Phật bằng đá, nằm trong thung lủng Bamiyan. Từ những trang Phật sử, ta thấy việc dời đổi chùa đinh, là chuyện bình thường trên đất Bắc thời trước, vì mục đích cũng chỉ muốn làm cho ngôi chùa thêm uy nghi tráng lệ hơn. Ðó là việc nhà Hậu Lê, đã dời chùa Trấn Quốc, được nhà Lý xây dựng tại Làng Yên Hoa, ngoài bải sông Hồng, vào địa điểm ngày nay, vì tránh lụt lội. Còn chùa Quan Thánh thời nhà Lý, được dựng trong Hoàng Thành, tới nhà Hậu Lê cũng được dời ra phía nam Hồ Tây, vì lý do mở rộng thành phố.

            Thời VNCH, đồng bào miền Bắc di cư, đã mô phỏng ngôi cổ tự danh tiếng nhất nước, để dựng lên ngôi chùa Một Cột ở miền Nam, qua danh xưng “ Nam Thiên Nhất Tru ‘.tại Thủ Ðức, do kiến trúc sư Ngô Gia Ðức thiết kế . Chùa hiện là một trong những ngôi Phật tự nổi tiếng nhất trong nước, thu hút rất nhiều Phật tử du khách mọi nơi, tới vãng cảnh chùa hay cúng Phật, nhất là vào những ngày Tết Nguyên Ðán hay Lễ Vía .

+ ÐƯỜNG LÊN YÊN TỬ MIỀN BẮC :

             Cách Hà Nội 100 cây số về hướng đông bắc, hơn 700 năm trước, vua Trần Nhân Tôn cũng là Thiền sư Ðiếu Ngự Giác Hòang, sau khi rời ngôi vua nhà Trần, đã tới núi Yên Tử tu trì và sáng lập THIỀN PHÁI TRÚC LÂM : Trung tâm của Phật Giáo VN.

            Cũng từ đó cho tới nay, mặc cho bao đời biển dâu trầm thống, rừng núi Yên Tử và những ngôi cổ tự, vẫn im lìm ẩn hiện trong mây khói với các huyền thoại và di tích của Thiền Tông VN. Theo truyền thuyết, mỗi khi nghe tiếng chuông từ chùa Ðồng trên đỉnh cao nhất của Yên Tử (1.100m), ngân nga vang vọng, thì tất cả các loài chim Nhạn, chim Hạc, đều rời tổ ấm nơi vách núi, bay bổng lên không trung che kín trời, sau đó tan biến trong cảnh núi rừng tĩnh lặng.

            Tên núi Yên Tử phát xuất bởi sự tích của một Thiền sư tên Yên Kỳ Sinh, thuộc dòng Thiền của Lục Tổ Huệ Năng, ngay đầu Tây lịch,từ bên Tàu tới đây tu hành và đắc đạo hóa Phật, biến thành đá nên được gọi là Yên Tử. Ngoài ra, từ Dốc Ðỏ dưới chân núi, nhìn lên đỉnh thấy hình dáng núi không khac gì một con voi đang phủ phục, nên còn có tên là Tựợng Sơn. Rặng núi này muôn đời như bức bình phong, ngăn luồn gió Nam Nồm từ Ðông Hải thổi vào núi, làm cho hơi gió đọng lại biến thành mây trắng lững lơ trên đỉnh núi quanh năm, nên Yên Tử còn được gọi là Phù vân sơn hay núi Bạch Vân.

            Sau nhiều thế kỷ Phật giáo du nhập và truyền bá vào VN, môn phái của Thiền Sư Yên Kỳ Sinh cũng có rất nhiều đệ tử, rất được trọng vọng thời nhà Trần. Một trong những cao tăng trên, là Quốc Sư Phù Vân, cũng chính là sư phụ của vua Trần Nhân Tông. Ngài là chiếc cầu nổi, dẫn dắt nhà vua, rời bỏ vinh hoa phú quý nơi cung vàng điện ngọc, để lên chốn rừng núi Yên Tử muôn trùng, tu trì và sáng lập Trúc Lâm Thiền Phái, chủ trương đạo đời hợp nhất, có ảnh hưởng rất lớn tại VN.

            Do đó, hệ thống chùa chiền am thất tại Yên Tử, đều được khởi công xây cất từ khi vua Trần Nhân Tông tới đây tu trì. Về sau lại được trùng tu nhiều lần. mà quan trọng nhất vào thời Vĩnh Thịnh (1345-1358) và Vĩnh Khánh (1729-1732). Tuy nhiên những chùa miếu còn lại tới nay trên Yên Tử , đều được xây dựng vào thời Nhà Nguyễn, dựa vào dấu ấn kiến trúc và điêu khắc từ các thời Trần-Hậu Lê.

            Ngoài những kiến trúc xây dựng, vua Nhân Tông còn cho trồng nhiều cây Tùng , vừa lấy bóng mát dọc theo những con đường nối liền hệ thống chùa am từ chân lên đỉnh núi. Rễ Tùng còn được xử dụng như những bậc thang, giúp khách hành hương lên núi, khỏi bị rơi xuống vực thẳm. Có ba loại Tùng được trồng ở đây là Thủy Tùng (gổ màu trắng), Thanh Tùng (gổ màu xanh) nhưng qúy nhất vẫn là Xích Tùng (Gổ đỏ) . Bởi vậy đường lên Yên Tử xưa nay, vẫn được gọi là Ðường Tùng với sự hiện hữu của 274 cây còn xanh tốt, dù tuổi thọ của chúng đã 700 năm.

            Hệ thống chùa am ở Yên Tử, đều tập trung ờ sướn núi phía nam, mà ngôi chùa đầu tiên là Ðền Trình, coi như là cửa ngõ lên núi, còn Chùa Ðồng là đỉnh cao nhất, từ đó có thể nhìn thấy Bạch Ðằng Giang, biển Ðông và biên giới Hoa Việt.. Chùa Ðồng nguyên thủy được các vua Nhà Trần xây dựng toàn bằng đồng, được coi như một biểu tượng của sự đồng nhất , giữa đạo-đời, con người và vũ trụ. Nhưng rồi chiến tranh triền miền, kéo dài từ thời này sang đời khác, nên chẳng những ngôi chùa nguyên thủy bằng đồng, mà cả chùa xây dựng sau này bằng đá và xi măng, cũng bị tàn phá, dột nát hư hại. Năm 1993, một ngôi chùa Ðồng mới đã được xây cất theo hình chữ Ðinh với hình dáng một Bông Hoa Sen nở . Trong chùa, có tượng Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, ngự trên tòa sen. Bên dưới là ba pho tượng của Tam Tổ Trúc Lâm : Trần Nhân Tông, Pháp Loa và Huyền Quang, cùng ngự trên đài sen. Phía trước có bốn chuông đồng, một quả lớn và ba quả nhỏ, lúc nào cũng như ngân nga trong cơn gió thoảng, lẫn trong mùi thơm ngát của hương khói và trăm hoa chen nở .

             Hiện còn các chùa Vân Tiêu, Bảo Xái, Thanh Long, An Tự, Hoa Yên, Giải Oan, Cầm Thục.. cùng với nhiều di vật đặc sắc đầy huyền thoại. Theo các nhà biên khảo xưa nay, thì nét đẹp tuyẽt mỹ của Yên Tử, chẳng những là chùa, am, tùng bách mà còn bao gồm cả khu rừng trúc xanh ngắt, những cụm hoa Trà My, Dành Dành có màu trắng muốt, đứng chen lẫn khoe sắc hương với từng khu vườn Cúc, Vạn Thọ màu vàng, mái chùa đỏ ối.. thấp thoáng ẩn hiện như sương khói muôn trùng.

            Hoa Yên là ngôi chùa lớn và đẹp nhất ở Yên Tử, nên còn được gọi là chùa Cả, chùa Chính hay chùa Yên Tử, nằm trên cao độ 800m, trên một dãi đất hình đài sen, bao quanh sườn núi,từ chính điện có thể nhìn ra Suối Giải Oan ở phía dưới, là lượt chảy giữa rừng núi xanh ngắt, đâu có khác nào một giải lụa trắng mềm mại. Quanh chùa có năm cây đại cổ thụ to lớn hơn 700 tuổi. Bên trong có nhiều tượng Phật toàn bằng đồng nhưng bề thế nguy nga nhất vẫn là tượng vua Trần Nhân Tông , đặt tại Bái đường. Phía dưới chùa là Kim Tháp, chốn an nghĩ ngàn đời của các vị Thiền Tăng Tam Tổ và 97 Tháp khác vây quanh Tháp Tổ, phụng thờ các vị Sư đã tu hành tại Yên Tử.

            Ngày nay đường lên rừng núi cheo leo Yên Tử, phần nào được rút ngắn và bớt nguy hiểm, nhờ một hệ thống Cáp treo, đã được thiết kế từ mặt đất lên tới chùa Hoa Yên. Nhờ vậy khách hành huơng như có cái cãm giác đang bồng bềnh trong sương khói, trong lúc có thể thưởng thức được trọn vẹn bức tranh thủy mạc trọn vẹn của non nước VN,từ rừng núi Quảng Ninh, biển đảo Hạ Long, khiến cho ai nấy lòng trần biến mất theo luồng gió mát lạnh của vũ trụ miên man.

+ HỆ THỐNG CHÙA PHẬT TRÊN NÚI BÀ ÐEN :

            Theo các tài liệu còn lưu trử, thì hệ thống chùa miếu trên núi Bà Ðen (Tây Ninh) , được hình thành đầu tiên, qua tín ngưỡng dân gian . Giống như những di dân đầu tiên từ Thuận Quảng vào khẩn hoang lập nghiệp ở Thuận Trấn, sống bằng nghề biển, nên đã tin thờ Nam Hải Ðại Tướng Quân(Cá Ông), để cầu xin gia hộ che chở, trong lúc hành nghề đạm bạc trên sông biến sóng gió . Tại Tây Ninh cũng vậy, những người tiều phu, khai rẩy, phá rừng, cũng cảm thấy mình thật bé nhỏ, trước thiên nhiên hùng vĩ và chúa sơn lâm, nên trong vô thức, đã bộc phát những nguyện cầu tới các đấng thần linh và theo thời gian trở thành một tón ngưởng, được mọi người đồng tình chấp nhận và tồn tại tới ngày nay.

            Khởi đầu vào thế kỷ XVII sau TL, người Việt đã bắt đầu tới Lục Chân Lạp (Nam Phần) để lập nghiệp và đã dựng trên núi, một ngôi chùa lá không tên, để làm nơi gởi gấm ký thác về thành tâm cầu nguyện các đấng thần linh hộ trì giúp đở.

            Năm 1745, có Thiền sư Thiệt Diệu (Liễu Quán) , thuộc đời thứ 35 của Thiền Phái Tế Thượng Chánh Tông, nhân đi ngang núi Bà Ðen, rung động trước sự tĩnh lặng và phong cảnh hửu tình trong vùng, nên Ngài đã quyết định ở lại tu trì. Cũng từ đó, chấm dứt thời kỳ tín ngưỡng dân gian tự phát và một hệ thống chùa Phật được xây dựng tại đây.

            Trải qua 252 năm thành lập, từ Tổ sư thứ 1 của Thiền Phái Tế Thượng, tới nay đã truyền được 11 đời. (35-46) , nối tiếp nhau khai hóa hành đạo tại núi Ðiện Bà (Tây Ninh) .

            Năm 1857 , Tỳ Kheo Thanh Thọ (Phước Chi ), xây dựng Ðại Hùng Bửu Ðiện và Giảng đường. Năm 1864, Thiền sư Huệ Mạnh, khai mỡ Linh Sơn Long Châu tự (Chùa Hang), cách chùa củ chừng 300m. Năm 1871, xây dựng chùa Phước Lâm, trên bờ con sông nhỏ, chảy ngang Ấp Vĩnh Xuân (Chợ Tây Ninh), được xem như tiền trạm của thiện nam tín nử, trên đường lên núi hành hương cúng Phật, nhất là ngày vía Bà mùng năm tháng năm hay Tết Nguyên Ðán.

            Từ 1880-1910, Thiền sư Chơn Thoại (Trừng Tùng), xây thêm chùa Trung, tyức Linh Sơn Phước Trung, để cho khách leo núi có chổ nghĩ ngơi. Từ năm 1910 về sau, núi Bà Ðen rộng mở, thu hút khách thập phương tới cúng Phật đông đảo. Ðây cũng thời gian Hòa Thượng Tâm Hòa, kiến tạo và mở rộng chùa Trung.Từ 1920-1924, toàn thể khu vực quanh chùa được mở rộng, qua hệ thống 21 tu viện chùa am lớn nhỏ . Ðồng thời một con đường, dài 1300m, rộng 6m, cũng được hoàn thành, từ chân núi lên chùa, tới nay tất cả vẫn còn lưu dấu.

            Năm 1945 , quân Nhật chiếm núi Bà Ðen, thiêu hủy toàn bộ hệ thống tu viện trên núi. Ngày 2-11-1945 thực dân Pháp thay thế quân Nhật chiếm đóng, ngoài việc đốt phá chùa chiền, còn bắt giết sát hại nhiều tăng ni.

            Năm 1954 chia hai đất nước và Tây Ninh thuộc lãnh thổ VNCH, nên Hòa Thượng Thích Giác Ðiền, trở lại núi, tái tạo lại hệ thống chùa Phật năm xưa, thêm to lớn và đẹp đẽ. Nhưng Cọng sản Hà Nội lại phát động cuộc xâm lăng Miền Nam qua cái gọi là MTGPMN công khai lộ diện từ tháng 12/1960. Tây Ninh vì gần biên giới Kampuchia, nên được Bắc Việt, chọn đặt căn cứ của Trung ương Cục Miền Nam., gọi tắt là cục R, cách tỉnh lỵ 64 km. Từ năm 1960-1975, chiến tranh càng lúc thêm ác liệt, các tăng ni trên núi Bà Ðen, phải theo Hòa thượng Thích Huệ Phương về tu tại chùa Phước Lâm trong thị xã. Trên chùa chỉ còn hai Ni cô Thích Nữ Diệu Châu và Diệu Nghĩa ở ;ại lo nhang khói. Núi Bà Ðen vắng ngắt mọi người.

            Sau năm 1975, đất nước ngưng tiếng súng, cũng nhờ VC không còn phá hoại và trên hết là tiềnvàng cúng dường của Việt kiều muôn phương, tuôn về giúp xây dựng lại chùa Phật trên núi Bà Ðen, hiện do Ni sư Thích Nữ Diệu Nghĩa làm Viện chủ. Từ 1992-1997, trùng tu lại các ngôi chùa Linh Sơn Long Châu tự (Chùa Hang), Linh Sơn Phuớc Trung tự (Chùa Trung) và nhiều chùa Phật khác trên núi. Ðiện Bà lại mở rộng như từ 300 năm trứơc với khách thập phương lên núi cúng Phật như không bao giờ dứt .

            Tết vừa qua, trong lúc cả nhân loại kể cả người Việt tị nạn VC trên mọi nẻo đường viễn xứ đều rộn rịp hoan hĩ đón mùng, thì ngay trên quê hương VN, giặc vẫn không ngừng đàn áp tôn giáo, quyết tâm bắt ép cả nước, phải tùng phục cái gọi là Phật giáo nhà nước, đem tượng Hồ Chí Minh, ngồi ngang với Ðức Phật Tổ và chư vị Bồ Tát. Bởi vậy cho nên Uỷ Ban Tự do tôn giáo quốc tế (USCIRF), đã yêu cầu bộ ngoại giao Hoa Kỳ phải đưa VC vào danh sách 10 nước, bị LHQ đánh giá là gây tổn hại cho tôn giáo, mà Hà Nội lúc nào cũng to miệng nói rằng ở VN hiện nay rất có tụ do tôn giáo.

            Như nhận xét của sử gia Hoàng Xuân Hản ‘ Ðời Lý là đời thuần từ nhất trong lịch sử nước ta, đó chính là nhờ ảnh hưởng của Phật giáo’. VN từ 1975 đến nay, qua chủ thuyết độc tài của Mác-Lê-Mao-Hồ, đã làm cho xã hội và con người VN biến đổi, đánh mất tất cả những cao quý của Dân tộc Việt có tự ngàn xưa, đưa đến hậu quả biến thành nô lệ của Tàu, vì không còn chổ dựa của tâm linh và lý tưởng ái quốc. Nhưng linh hồn đất Việt vẩn còn đó, nhất là Phật giáo VN, suốt bao thế kỷ , luôn đồng hành chia xẽ nổi bất hạnh với dất nước, luôn đặt sự tồn vong của đạo với sự tồn vong của dân tộc Việt. Bởi vậy :

“ Dân tộc ta không thể nào thua chủ thuyết Cộng Sản
Ðạo Phật muôn đời sáng lạn, sẽ làm sụp đổ chủ nghĩa vô thần Lê Mác
VN vẫn còn núi còn sông và ngôi chùa
Muôn đời không dời đổi “
 

Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy
THáng 11-2010
MƯỜNG GIANG



No comments: